BÁO CÁO TỔNG KẾT NHIỆM KỲ
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TP.HỒ CHÍ MINH
KHOÁ XII (2007-2011)
************
Nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII là nhiệm kỳ Quốc hội của thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Bốn năm qua, hoạt động của Quốc hội ngày càng được đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Cùng với những đổi mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, phát huy kết quả đạt được của các nhiệm kỳ trước, Đoàn ĐBQH thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ khoá XII đã tích cực phấn đấu, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định pháp luật, góp phần vào những kết quả đạt được chung của Quốc hội.
Thực hiện Kế hoạch số 357/KH-UBTVQH12 ngày 13/8/2010 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn ĐBQH thành phố Hồ Chí Minh báo cáo kết quả hoạt động của mình trong nhiệm kỳ khoá XII (2007-2011) như sau:
PHẦN 1
KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐBQH TP.HCM
NHIỆM KỲ KHOÁ XII (2007-2011)
I- Công tác xây dựng pháp luật
1- Phương thức tổ chức tham gia xây dựng pháp luật
Căn cứ Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm của Quốc hội và chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trước mỗi kỳ họp Quốc hội, Đoàn ĐBQH thành phố cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch tổ chức hội nghị, hội thảo lấy ý kiến đóng góp xây dựng các dự án Luật.
Trong điều kiện hầu hết ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm và không phải ĐBQH nào cũng có đầy đủ kiến thức trên nhiều lĩnh vực mà các dự án luật điều chỉnh, Đoàn ĐBQH thành phố đã tổ chức lắng nghe các chuyên gia, luật sư, luật gia, nhà khoa học, các trường đại học, các nhà quản lý, các cơ quan Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên, các doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân của thành phố tham gia đóng góp ý kiến vào các dự án luật.
Phương thức chính là tổ chức các Hội nghị, Hội thảo lấy ý kiến đóng góp xây dựng luật, thành phần chủ yếu là các chuyên gia, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp của văn bản luật sẽ ban hành. Đoàn ĐBQH thành phố phân công các nhóm ĐBQH am hiểu sâu về lĩnh vực mà dự án luật điều chỉnh tham dự các buổi hội thảo để ghi nhận các ý kiến đóng góp, làm nòng cốt chuẩn bị nội dung tham gia thảo luận tại kỳ họp Quốc hội.
Đoàn ĐBQH thành phố còn phối hợp chặt chẽ với Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố trong việc tổ chức lấy ý kiến sâu rộng trong nhân dân, các ngành, các cấp của thành phố đối với một số dự án luật quan trọng theo kế hoạch của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ khoá XII là Đoàn ĐBQH thành phố không những tập trung lấy ý kiến các dự án luật Quốc hội thông qua, mà còn chủ động tổ chức nhiều hội thảo lấy ý kiến đóng góp cho các dự án luật được Quốc hội xem xét, cho ý kiến lần đầu. Những tài liệu liên quan phục vụ công tác xây dựng luật được Đoàn chủ động khai thác từ nhiều nguồn như tài liệu từ mạng tin học của Văn phòng Quốc hội, từ website của Chính phủ, các Bộ, Ngành… nhằm cung cấp kịp thời, thiết thực cho công tác lấy ý kiến góp ý các dự án Luật. Ngoài ra, Đoàn còn gửi nhiều dự án luật có liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân đến Mặt trận tổ quốc các quận, huyện để sao gửi cho cử tri, tạo điều kiện thuận lợi cho đông đảo cử tri tham gia đóng góp cụ thể vào nội dung của các dự án luật tại các buổi tiếp xúc cử tri.
2- Kết quả
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Đoàn ĐBQH thành phố đã tổ chức 78 cuộc hội thảo lấy ý kiến cho các dự án luật trình Quốc hội thông qua và cho ý kiến tại các kỳ họp. Qua 78 cuộc Hội thảo, đã ghi nhận được 2.492 ý kiến đóng góp gửi đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội. Với phương thức tổ chức lấy ý kiến xây dựng luật như trên, đã mang lại những kết quả chủ yếu:
- Tập hợp và huy động rộng rãi các nhà khoa học, các chuyên gia, các nhà quản lý, những người có kinh nghiệm họat động thực tiễn ở các sở, ngành, Mặt trận – đoàn thể, các hiệp hội, các doanh nghiệp… tham gia các cuộc hội thảo góp ý cho các dự án luật với nhiều nội dung góp ý có cơ sở khoa học và thực tiễn.
- Các đợt tổ chức lấy ý kiến xây dựng luật, đặc biệt là các dự án luật lấy ý kiến toàn dân, vừa là đợt sinh hoạt chính trị rộng rãi trong nhân dân để thu thập ý kiến đóng góp của nhân dân vào các dự án luật, vừa là dịp để giới thiệu, phổ biến các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến nội dung mà dự án luật điều chỉnh. Thông qua các hình thức trên, Đoàn ĐBQH thành phố một mặt ghi nhận được nhiều ý kiến tâm huyết của nhân dân đóng góp cho dự án luật, mặt khác tuyên truyền và phổ biến kịp thời đến nhân dân các nội dung lớn trong chính sách pháp luật hiện hành liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội .
- Xây dựng và tập hợp được nhiều tư liệu và tài liệu tham khảo cung cấp cho ĐBQH. Qua đó, đại biểu có thể nghiên cứu, chắt lọc, tham gia đóng góp xây dựng luật tại kỳ họp Quốc hội có chất lượng. Nhiều ý kiến đã được các vị ĐBQH quan tâm đưa ra trao đổi trên diễn đàn Quốc hội, được đánh giá là thực tiễn, có tính khả thi và được tiếp thu trong các dự thảo luật, góp phần vào kết quả của công tác lập pháp của Quốc hội nhiệm kỳ khóa 12.
Tuy nhiên, hoạt động tham gia xây dựng pháp luật của Đoàn ĐBQH thành phố nhiệm kỳ khoá XII vẫn còn một số tồn tại: số lượng các hội thảo được tổ chức nhiều, nhưng ĐBQH tham dự chưa đông; vẫn còn tình trạng các cuộc hội thảo được tổ chức dồn dập trong một thời gian ngắn làm ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu, góp ý và tổng hợp ý kiến; quỹ thời gian để các đại biểu nghiên cứu tài liệu còn ít; số ĐBQH tham gia đóng góp ý kiến tại các buổi hội thảo chưa nhiều và chưa thường xuyên…
Nguyên nhân của tồn tại:
- Do đa số ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm, nên mặc dù chương trình của Đoàn đã có phân công cụ thể nhưng do điều kiện công tác, các ĐBQH vẫn chưa đảm bảo sắp xếp tham dự đầy đủ các hội nghị, hội thảo lấy ý kiến đóng góp xây dựng luật.
- Số lượng các dự án luật gửi xin ý kiến ngày càng nhiều, mặc dù nhiệm kỳ vừa qua đã có cải tiến cách thức gửi tài liệu đến Đoàn ĐBQH và ĐBQH qua mạng tin học, tuy nhiên nhìn chung việc gửi tài liệu còn chậm (quy định hiện hành là gửi chậm nhất 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp), gửi dồn dập trong cùng một thời điểm, lại yêu cầu phải báo cáo nhanh nên không thể tránh khỏi cập rập, sơ sót trong khâu tổ chức, biên soạn và tổng hợp ý kiến đóng góp. Các dự án luật Quốc hội xem xét cho ý kiến lần đầu ít được gửi về địa phương để lấy ý kiến trước mỗi kỳ họp Quốc hội.
- Có nhiều dự án luật liên quan đến những lĩnh vực chuyên môn hẹp, nhưng thông tin tham khảo liên quan đến dự án luật cung cấp cho ĐBQH còn hạn chế.
II-Công tác tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
1-Phương thức thực hiện:
Để cung cấp thông tin và giúp ĐBQH có cơ sở thực tiễn tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong các kỳ họp Quốc hội, Đoàn ĐBQH thành phố tổ chức các hình thức:
-Tổ chức các đợt nghiên cứu, khảo sát thực tiễn theo chủ đề phù hợp với nội dung của từng kỳ họp Quốc hội.
-Phối hợp và cử ĐBQH trong Đoàn tham gia vào các Đoàn công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội làm việc tại thành phố về các vấn đề kinh tế-xã hội trên địa bàn.
-Trước mỗi kỳ họp Quốc hội, định kỳ làm việc với Uỷ ban nhân dân thành phố về tình hình kinh tế-xã hội và các kiến nghị về cơ chế, chính sách với Trung ương.
-Tham dự đầy đủ các kỳ họp Hội đồng nhân dân thành phố để kịp thời nắm bắt những nội dung bức xúc từ thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của thành phố Hồ Chí Minh.
-Cử ĐBQH tham gia các Đoàn công tác, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm hoạt động của Quốc hội các nước để tạo điều kiện cho đại biểu nâng cao kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động này.
-Qua các đợt giám sát, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân…, các ĐBQH chọn lọc nhiều vấn đề, nội dung bổ ích, thiết thực để tham gia đóng góp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
2-Kết quả:
Từ các phương thức làm việc trên, Đoàn ĐBQH thành phố đã cung cấp cho các ĐBQH các tư liệu, tài liệu có hệ thống về tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn, về các nội dung chuyên đề làm cơ sở để ĐBQH tham gia đóng góp ý kiến cùng với Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước về kế hoạch kinh tế xã hội hàng năm và 5 năm; dự toán và phân bổ ngân sách Nhà nước và phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước; quyết định về tổ chức bộ máy và nhân sự các cơ quan Nhà nước; về việc thực hiện các công trình quan trọng của quốc gia, các quyết định của Nhà nước về hoạt động đối ngoại…
Tuy nhiên, việc tham gia góp ý của Đoàn ĐBQH thành phố chưa đồng đều và còn hạn chế. Tình hình trên xuất phát từ nguyên nhân là thông tin phục vụ cho ĐBQH chưa đầy đủ, những tài liệu có liên quan thường chỉ được cung cấp tại kỳ họp Quốc hội, trong khi đó chưa có cơ chế sử dụng chuyên gia giúp ĐBQH trong việc thẩm định, nghiên cứu sâu về các nội dung có liên quan.
III-Về hoạt động giám sát
1-Phương thức tổ chức giám sát
Đoàn ĐBQH thành phố xác định công tác giám sát là một trong những nội dung rất quan trọng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Từ thực tiễn sinh động của thành phố, qua hoạt động giám sát, Đoàn ĐBQH thành phố không chỉ đề xuất những chủ trương, giải pháp với Quốc hội cho những vấn đề chung mà còn góp phần cùng với chính quyền địa phương khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
- Việc xây dựng chương trình giám sát của Đoàn ĐBQH thành phố bám sát vào Nghị quyết về chương trình giám sát hàng năm của Quốc hội và tình hình thực tiễn của thành phố. Chương trình giám sát nêu rõ thành phần đoàn giám sát, đơn vị chịu giám sát, thời gian tiến hành, nội dung giám sát. Chương trình giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế - xã hội.
-Công tác tổ chức giám sát được thực hiện đúng theo quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội: có phân công Trưởng đoàn và thành viên Đoàn giám sát, có kế hoạch giám sát được gửi trước cho các cơ quan hữu quan trước từ 7-10 ngày, yêu cầu các cơ quan hữu quan chuẩn bị nội dung báo cáo bằng văn bản. Sau mỗi cuộc giám sát, đoàn giám sát có báo cáo kết quả giám sát, đồng thời có các kiến nghị đối với các cơ quan hữu quan liên quan đến nội dung giám sát.
-Đoàn ĐBQH thành phố phối hợp chặt chẽ và phân công ĐBQH tham gia nhiều Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tại Thành phố, góp phần cho hoạt động giám sát đạt kết quả tốt cả hai phương diện, đó là vừa phối hợp chặt chẽ với hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, vừa giúp Đoàn ĐBQH nắm chắc thêm tình hình, góp phần hạn chế tình trạng giám sát chồng chéo.
-Đoàn ĐBQH thành phố giữ mối quan hệ chặt chẽ với Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố trong hoạt động giám sát. Các cuộc giám sát của Đoàn thường xuyên mời đại diện của Thường trực và các Ban Hội đồng nhân dân, đại diện Uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố cùng tham dự nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát.
2-Kết quả :
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Đoàn ĐBQH thành phố đã tổ chức 21 cuộc giám sát; tham gia 36 Đoàn giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Kết thúc mỗi cuộc giám sát, Đoàn ĐBQH thành phố đều có báo cáo kết quả giám sát, đồng thời có 212 kiến nghị đối với các cơ quan hữu quan liên quan đến nội dung giám sát.
Nhìn chung, hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH và ĐBQH thành phố thực hiện đúng theo chương trình đã đề ra, bám sát chương trình giám sát hàng năm của Quốc hội và tổ chức thêm được nhiều cuộc giám sát từ tình hình thực tiễn của thành phố. Nội dung giám sát không dàn trải mà tập trung một số vấn đề trọng tâm, các vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế-xã hội, được đông đảo cử tri và nhân dân quan tâm. Các cơ quan chịu sự giám sát đã tích cực cộng tác, đáp ứng yêu cầu của cơ quan giám sát. Hoạt động giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH thành phố ngày càng có ý nghĩa thiết thực; vừa giúp cho chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền, kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót trong quá trình hoạt động, vừa góp phần phổ biến, tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức của công dân tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Các ĐBQH đã tích cực góp ý, những mặt hạn chế trong công tác quản lý, điều hành; đồng thời thẳng thắn nêu lên những giải pháp, biện
pháp giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của cử tri tại địa phương.
Do có sự đầu tư nghiêm túc, nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn tình hình kinh tế-xã hội, nên chất lượng các kiến nghị sau giám sát của Đoàn ĐBQH thành phố trong nhiệm kỳ khoá XII từng bước được nâng cao. Nhiều nội dung kiến nghị của Đoàn ĐBQH thành phố được các cơ quan nhà nước xem xét, tiếp thu và có điều chỉnh trong quá trình điều hành và ban hành các chính sách chung; đặc biệt có một số nội dung kiến nghị cụ thể của Đoàn ĐBQH thành phố được Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo các cơ quan trung ương; Uỷ ban nhân dân thành phố chỉ đạo các sở, ngành hữu quan xem xét giải quyết như các kiến nghị về: cơ chế quản lý, sử dụng đất của các doanh nghiệp nhà nước; về sửa đổi Luật đất đai; về thực hiện chính sách kích cầu; về giải quyết ô nhiễm môi trường lưu vực sông Đồng Nai; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất; về chống lãng phí trong sử dụng nhà xưởng, kho bãi trên địa bàn thành phố; chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản…
Các ĐBQH thành phố tích cực thực hiện giám sát trực tiếp qua công tác chất vấn Chính phủ, các Bộ Ngành chức năng tại các kỳ họp Quốc hội. Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII đến nay, đã có 58 lượt ĐBQH thực hiện quyền chất vấn, với gần 121 ý kiến chất vấn bằng văn bản; 22 ý kiến chất vấn trực tiếp tại Hội trường. Để hoạt động giám sát thông qua chất vấn đạt hiệu quả, các ĐBQH thành phố đã chủ động đổi mới nội dung chất vấn, có sự đầu tư nhất định cho việc nghiên cứu tài liệu, và các quy định hiện hành của Nhà nước và của địa phương liên quan đến nội dung chất vấn. Đồng thời, các ĐBQH đã dành thời gian lắng nghe, tiếp thu ý kiến nhiều chiều từ cử tri, có xem xét thực tế trước khi thực hiện quyền chất vấn.
3- Khó khăn, hạn chế :
- Các cuộc giám sát thường tổ chức theo hình thức Đoàn giám sát của Đoàn ĐBQH; ít ĐBQH thực hiện chương trình giám sát riêng theo quy định của Luật hoạt động giám sát. Trong nhiệm kỳ, thực hiện được 6 cuộc giám sát theo hình thức tổ ĐBQH.
-Việc huy động chuyên gia, cơ quan chuyên môn nghiệp vụ có liên quan để giúp thông tin cho Đoàn giám sát vẫn còn rất ít, chưa thành một chế độ phổ biến do cơ chế và những quy định về thẩm quyền tham vấn và chi bồi dưỡng cho chuyên gia chưa có.
- Trong hoạt động chất vấn, chủ yếu tập trung chất vấn trực tiếp tại kỳ họp, công tác chất vấn giữa hai kỳ họp thực hiện không đều, không thường xuyên. Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật nhìn chung chưa thực hiện được.
- Nhiều kiến nghị sau giám sát của Đoàn ĐBQH thành phố được các cơ quan hữu quan thừa nhận và có điều chỉnh nhưng số lượng văn bản chính thức trả lời còn ít. Việc đôn đốc và theo dõi kết quả việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát có được đặt ra, nhưng chỉ dừng ở mức theo dõi và phản ánh tình hình chung. Do đó chưa thể tổng hợp chính xác số lượng kiến nghị sau giám sát đã thực hiện. Chưa thực hiện thường xuyên việc xem xét tiến trình giải quyết của các ngành chức năng sau giám sát.
Nguyên nhân của hạn chế:
- Đa phần các ĐBQH kiêm nhiệm nên quỹ thời gian làm nhiệm vụ đại biểu còn hạn chế; số lượng ĐBQH tham gia từng cuộc giám sát không nhiều (khoảng từ 3-4 đại biểu, có cuộc từ 2-3 đại biểu). Đặc biệt, việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi đại biểu phải có kiến thức khá toàn diện về pháp luật, về lĩnh vực mà văn bản pháp luật đó điều chỉnh và cần có cơ chế huy động chuyên gia giúp việc, song với điều kiện và cơ chế hiện nay thì rất khó thực hiện được chức năng này.
- Nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện nay xung đột pháp lý nên gây khó khăn trong việc đánh giá khi tiến hành giám sát. Tình trạng các văn bản pháp luật, nhất là các văn bản hướng dẫn thi thành luật thiếu ổn định, thay đổi khá nhanh trong một thời gian ngắn làm cho hoạt động giám sát khó thực hiện được việc xem xét, đánh giá một cách có hệ thống và có chất lượng.
-Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH tuy khá đầy đủ, nhưng còn thiếu cơ chế, biện pháp và công cụ thật sự có hiệu quả để đảm bảo thực hiện quyền hạn của mình. Ví dụ: luật quy định về bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn yêu cầu phải có 20% tổng số ĐBQH đề nghị, song cơ chế thực hiện không rõ; chưa quy định cụ thể về chế tài trách nhiệm của cơ quan, tổ chức hữu quan trong xem xét, giải quyết và thực hiện các kiến nghị sau giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH; còn thiếu các quy định hướng dẫn cụ thể về quy trình tổ chức Đoàn giám sát; quy trình “xem xét, xác minh” những vấn đề cần thiết của ĐBQH, Đoàn giám sát; quy trình mời các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia Đoàn giám sát ….
- Công tác tham mưu phục vụ hoạt động giám sát của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố từng bước được cải thiện nhưng nhân sự còn thiếu, chất lượng nhìn chung chưa tương xứng với yêu cầu.
IV- Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
1-Tình hình
Trong nhiệm kỳ khoá XII, Đoàn ĐBQH thành phố tiếp tục duy trì việc tổ chức tiếp công dân thường xuyên tại trụ sở Đoàn (1-3 buổi/ tuần). Lịch tiếp công dân của các ĐBQH được thông báo công khai trước 5-7 ngày để công dân có đăng ký tiếp xúc. Trước mỗi buổi tiếp công dân, cán bộ Tổ tiếp công dân chuẩn bị trước danh sách công dân đã đăng ký và rà soát lại hồ sơ các vụ việc. Căn cứ và hồ sơ lưu trữ, nội dung vụ việc mà Tổ tiếp công dân cung cấp kết hợp với trình bày và đơn kèm hồ sơ của công dân, ĐBQH có ý kiến xử lý theo quy định của pháp luật và phù hợp với những quy định trong Nghị quyết 288/UBTVQH10 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, để có cơ sở giải quyết các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài từ các nhiệm kỳ Quốc hội khóa trước, Đoàn ĐBQH thành phố đã thành lập Ban tư vấn (gồm 9 thành viên là luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành phố và một số thẩm phán của Toà án nhân dân thành phố) để hỗ trợ Đoàn trong việc nghiên cứu, đề xuất hướng giải quyết.
- Đối với một số vụ việc phức tạp mà công dân có những phản ứng gay gắt hoặc khiếu kiện đông người, Thường trực Đoàn ĐBQH thành phố tổ chức gặp gỡ người dân, có mời đại diện Ban Tư vấn, đại diện các cơ quan chức năng…để nghe ý kiến trình bày, trao đổi giữa người dân và chính quyền, từ đó nắm bắt cụ thể vụ việc để đề ra các kiến nghị xử lý.Thường trực Đoàn ĐBQH và một số Tổ ĐBQH còn tổ chức nhiều buổi làm việc với Uỷ ban nhân dân các quận, huyện nơi phát sinh khiếu nại để tìm hiểu vụ việc, giám sát việc giải quyết khiếu nại của chính quyền địa phương.
2-Kết quả và các mặt tồn tại
-Đoàn ĐBQH thành phố đảm bảo thực hiện nghiêm túc việc tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân đúng quy trình, thủ tục pháp luật quy định, số lượng tiếp công dân vượt mức so với quy định tại Nghị quyết 228 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
-Từ đầu nhiệm kỳ đến ngày 17/11/2010, Đoàn đã tổ chức 149 buổi ĐBQH tiếp 1.337 lượt công dân tại Trụ sở Đoàn. Tổng số đơn nhận được từ các nguồn (tiếp công dân, tiếp xúc cử tri, đơn thư gửi qua bưu điện…) là 6.207 (5.560 đơn khiếu nại; 647 đơn tố cáo). Xử lý cụ thể như sau:
+Không chuyển 2.946 đơn (do đơn thư trùng lắp, đơn nặc danh, không có chữ ký, không có địa chỉ rõ ràng cụ thể…)
+Ban hành văn bản trả lời, hướng dẫn công dân: 1.995 đơn
+Chuyển đến các cơ quan chức năng 1.975 đơn; nhận 1.105 văn bản trả lời (đạt tỷ lệ 55,94%).
-Từ ngày thành lập đến nay, Ban Tư vấn đã nghiên cứu tham mưu cho Đoàn ĐBQH có ý kiến xử lý 51 trường hợp, trong đó có 21 vụ việc kéo dài từ nhiều nhiệm kỳ Quốc hội khóa trước.
-Đoàn ĐBQH thành phố xác định thông qua công tác tiếp công dân, phải kết hợp tuyên truyền, giải thích pháp luật để công dân nhận thức đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo trong khuôn khổ của pháp luật. Do đó, Đoàn ĐBQH thành phố chú trọng việc giải thích, hướng dẫn công dân gửi đơn đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết, từ chối nhận đơn đối với các vụ việc Thường trực Đoàn ĐBQH thành phố xét thấy cơ quan có thẩm quyền đã giải quyết đúng theo quy định của pháp luật.
Việc tiếp công dân chiếm khá nhiều thời gian, công sức trong hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH, tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại:
-Phần lớn các phiếu chuyển của ĐBQH chỉ mới dừng lại ở mức yêu cầu các cơ quan chức năng giải quyết hoặc đôn đốc giải quyết, chưa thể hiện được chính kiến, nhận định của ĐBQH trong từng vụ việc. Việc đôn đốc các cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cũng chưa kịp thời, thường xuyên và đầy đủ, thường chỉ thực hiện các văn bản đôn đốc khi nhận được đơn yêu cầu của người dân. Việc tổ chức các cuộc giám sát các vụ khiếu nại tồn đọng lâu ngày tuy được xem là tích cực, nhưng không nhiều.
-Số đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với những vụ việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng hoặc bản án của Toà án đã có hiệu lực pháp luật vẫn còn nhiều. Nhiều vụ việc chưa có quyết định giải quyết ngay từ cấp cơ sở (quận, huyện, phường, xã) nhưng người dân đã gửi đơn đến ĐBQH để khiếu nại vì cho rằng có “tiếng nói” của ĐBQH thì chính quyền mới giải quyết sự việc theo đúng pháp luật. Việc này gây quá tải trong phân loại, xử lý đơn của công dân.
-Tình trạng các cơ quan chức năng không trả lời hoặc chậm trả lời các phiếu chuyển của Đoàn ĐBQH vẫn còn khá lớn. Có những văn bản trả lời nêu thời gian xem xét, giải quyết các vụ việc của công dân rất cụ thể, nhưng trên thực tế thì lại kéo dài mà không thông báo lý do cho công dân cũng như Đoàn ĐBQH biết. Nội dung một số văn bản trả lời của cơ quan thẩm quyền còn chung chung, hoặc liệt kê trình tự xảy ra vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân mà không đưa ra kết luận và hướng giải quyết dứt điểm. Ngoài ra, có một số vụ việc chuyển “lòng vòng” giữa các cơ quan nhà nước (Cùng một vụ việc nhưng cơ quan hành pháp thì hướng dẫn công dân khởi kiện tại Tòa án, còn cơ quan tư pháp lại hướng dẫn người dân gửi đơn đến cơ quan hành pháp, cuối cùng là vụ việc khiếu nại của người dân không được cơ quan nào thụ lý. Đối với những vụ việc này Đoàn ĐBQH thường có phiếu chuyển lên Ủy ban Tư pháp hoặc Ủy ban Pháp luật của Quốc hội để phối hợp nghiên cứu, xem xét và có hướng trả lời cụ thể cho người dân).
-Nhiều vụ việc khiếu nại kéo dài qua nhiều khoá Quốc hội; đặc biệt đối với 22 vụ việc do Đoàn ĐBQH khoá XI bàn giao, mặc dù Thường trực Đoàn ĐBQH thành phố khoá XII đã có văn bản chính thức trả lời, nhưng vẫn còn 12 vụ việc công dân không đồng ý và thường xuyên đến Trụ sở Đoàn ĐBQH để tiếp tục khiếu nại, đến nay vẫn chưa có hướng xử lý.
Nguyên nhân:
- Số lượng đơn thư lớn, nhân sự của Văn phòng trực tiếp phục vụ công tác tiếp công dân còn thiếu nên không tránh khỏi quá tải. Việc xử lý đơn thư hầu như đã chiếm hết thời gian nên công tác tham mưu cho Đoàn ĐBQH giám sát, đôn đốc, việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo còn nhiều hạn chế.
- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cấp chính quyền tuy được tăng cường, nhưng vẫn còn có mặt hạn chế về chất lượng, hiệu lực, hiệu quả. Trong quá trình triển khai các dự án quy hoạch và chỉnh trang đô thị, vẫn còn nhiều bức xúc trong dân, nhất là về giá cả đền bù. Do nhận thức chưa đầy đủ về thẩm quyền, nhiều công dân tìm đến ĐBQH để trình bày và gửi đơn với thái độ gay gắt, gây áp lực buộc ĐBQH phải chuyển đơn đến các cơ quan chính quyền.
- Do một số văn bản trả lời của cơ quan chức năng còn chung chung, nên khi nhận được văn bản trả lời, công dân vẫn tiếp tục khiếu nại. Việc trả lời thường chậm làm cho người dân phải đi lại nhiều lần gây tâm lý nặng nề, bức xúc. Trong khi đó, quy định chế tài đối với các cơ quan không trả lời kiến nghị của ĐBQH chưa cụ thể rõ ràng.
-Một số quyết định hành chính, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chậm thực hiện, làm ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết.
- Nhiều trường hợp nội dung khiếu nại, tố cáo không chính đáng, nặng lợi ích cá nhân. Dù cơ quan chính quyền có giải quyết đúng pháp luật, các công dân này vẫn khiếu kiện. Hoặc cũng có một số người dân do không am hiểu về pháp luật nên dễ bị người khác lôi kéo, gây áp lực đối với cơ quan ra văn bản và người ký văn bản. Trong khi đó, chế tài đối với các trường hợp này chưa được quy định rõ. Chính điều này đã gây khó khăn cho quá trình giải quyết của các cơ quan nhà nước cũng như công tác tiếp công dân của Đoàn ĐBQH.
- Một vấn đề không kém phần quan trọng là việc ĐBQH tiếp công dân, đôn đốc và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định tại Nghị quyết 228 chưa thật sự minh định chức năng của đại biểu dân cử với cơ quan hành chính nhà nước; làm cho công dân hiểu các cơ quan Quốc hội như là cơ quan giải quyết khiếu nại cấp cao, dẫn đến sự quá tải và không hiệu quả. Chưa có quy định về việc ĐBQH có quyền từ chối tiếp công dân nếu xét thấy vụ việc đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết đúng pháp luật.
V-Công tác tiếp xúc cử tri
1- Tình hình và kết quả tiếp xúc cử tri
Thực hiện Luật Tổ chức Quốc hội và Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH, Đoàn ĐBQH TP đã tổ chức đều đặn việc tiếp xúc cử tri để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội. Địa bàn tiếp xúc cử tri rộng, ngoài việc tổ chức tiếp xúc cử tri (TXCT) chung tại quận, huyện, nhiều tổ ĐBQH còn luân phiên ở các phường, xã hoặc cụm phường-xã. Ngoài ra, nhiều ĐBQH tích cực tiếp xúc cử tri tại nơi cư trú, tiếp xúc cử tri tại nơi công tác, tiếp xúc cử tri theo giới, ngành…
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa 12, Đoàn ĐBQH thành phố đã tổ chức Hội nghị bàn về việc tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp tổ chức tiếp xúc cử tri với Thường trực Quận, Huyện ủy, Thường trực UBMTTQ các Quận, Huyện; từ đó thống nhất nhiều biện pháp đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH trên địa bàn thành phố, trong đó nội dung đổi mới đáng ghi nhận là từ đợt tiếp xúc cử tri trước kỳ họp thứ 3-QH12, Đoàn ĐBQH thành phố sao gửi một số dự thảo Luật đến Uỷ ban Mặt trận tổ quốc các Quận-Huyện để mời những cử tri am hiểu về lĩnh vực mà dự án Luật điều chỉnh tham gia đóng góp trực tiếp vào nội dung dự thảo Luật. Nhờ vậy, việc tiếp xúc cử tri diễn ra rộng và sâu hơn, số lượng cử tri tham dự cũng cao hơn, có nhiều ý kiến đóng góp xác đáng cho các dự án luật. Cách làm này được cử tri đồng tình và hạn chế được phần nào tình trạng chỉ thu hút được một số “đại biểu cử tri” tham gia thường xuyên các cuộc tiếp xúc cử tri của ĐBQH.
Đoàn ĐBQH thành phố cũng đã tổ chức Hội nghị tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN. Đánh giá qua 4 năm thực hiện Nghị quyết liên tịch cho thấy: nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thi hành Quyết định được nâng lên rõ rệt; cử tri ngày càng quan tâm theo dõi và mong muốn tham dự nhiều buổi tiếp xúc cư tri của ĐBQH để đề đạt tâm tư, nguyện vọng và những kiến nghị với chính quyền các cấp. Hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH và Đoàn ĐBQH từng bước được đổi mới với nhiều hình thức, mặc dù vẫn còn một số hạn chế, tồn tại cần tiếp tục khắc phục.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Đoàn ĐBQH thành phố đã tổ chức 420 cuộc tiếp xúc cử tri, trong đó có gần 160 cuộc tiếp xúc cử tri ở phường, xã, tiếp xúc cử tri theo giới, ngành….. Qua các cuộc tiếp xúc cử tri, Đoàn ĐBQH thành phố đã ghi nhận 812 nhóm kiến nghị cử tri thành phố gửi đến Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Ngành Trung ương; Uỷ ban nhân dân thành phố, các sở, ngành thành phố. Đến sau kỳ họp thứ 7-QH12 đã có 477 nhóm kiến nghị của cử tri thành phố được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ghi nhận và đề nghị Chính phủ, các cơ quan chức năng Trung ương xem xét giải quyết. Đồng thời, Đoàn ĐBQH thành phố đã nhận được 180 văn bản trả lời kiến nghị cử tri của các cơ quan chức năng và đã sao gửi đến cử tri thông qua Ủy ban MTTQ các quận, huyện. Các kiến nghị của cử tri thuộc thẩm quyền thành phố cũng được Đoàn tập hợp và đề nghị Uỷ ban nhân dân thành phố và các sở, ngành hữu quan xem xét giải quyết. Một số Tổ ĐBQH trước khi tiếp xúc cử tri đã tiến hành làm việc với Uỷ ban nhân dân thành phố và các sở, ngành hữu quan để giám sát, đôn đốc giải quyết các kiến nghị cụ thể của cử tri tại các lần tiếp xúc trước.
Các kiến nghị của cử tri thành phố đều được phần lớn các bộ, ngành, các cấp chính quyền thành phố nghiên cứu, xem xét giải quyết và trả lời bằng văn bản. thể hiện trách nhiệm trong việc giải quyết kiến nghị của cử tri. Tuy nhiên, cũng còn một số văn bản trả lời rất chung, viện dẫn các quy định còn đang bất cập mà cử tri cho rằng cần phải được sửa đổi. Ngoài ra, có nhiều nhóm kiến nghị cử tri thuộc về cơ chế chính sách, pháp luật ở tầm vĩ mô, đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp, cần phải có thời gian và biện pháp đồng bộ mới có thể giải quyết dứt điểm. Cụ thể như các vấn đề về phòng, chống tham nhũng; về cải cách thủ tục hành chính; về quản lý, sử dụng cán bộ công chức; về chế độ tiền lương và chính sách an sinh xã hội… Đây là các nhóm vấn đề mà lần tiếp xúc nào cử tri cũng đề cập và cho rằng kết quả giải quyết trong thời gian qua chưa được như mong muốn, cần phải triển khai các giải pháp, biện pháp cụ thể một cách quyết liệt và hiệu quả.
Nhìn chung, hoạt động tiếp xúc cử tri của Đoàn ĐBQH thành phố trong nhiệm kỳ qua đã phản ánh được tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri, các ngành, các cấp của thành phố Hồ Chí Minh đến diễn đàn Quốc hội, góp phần cùng với Quốc hội đôn đốc Chính phủ và các Bộ, Ngành giải quyết nhiều kiến nghị của cử tri. Từ những ý kiến, kiến nghị của cử tri, ĐBQH có thêm thông tin, tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, chọn những vấn đề bức xúc để chất vấn các Bộ, Ngành… Các phiên chất vấn được truyền hình trực tiếp trên cả nước được cử tri thành phố quan tâm.
2-Những mặt tồn tại và nguyên nhân:
- Mặc dù có quy định, nhưng tại nhiều cuộc tiếp xúc, còn tình trạng cử tri chỉ trình bày khiếu nại, tố cáo, nêu các bức xúc cá nhân, nêu các vụ việc khiếu nại kéo dài, nên kết quả buổi tiếp xúc không đạt được yêu cầu đề ra.
- Mặc dù Đoàn ĐBQH thành phố có cố gắng trong việc phối hợp với Thường trực Uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố, quận, huyện để cải tiến công tác tổ chức tiếp xúc cử tri, số cuộc tiếp xúc cử tri được tổ chức ngày càng nhiều hơn nhưng nhìn chung số cuộc tiếp xúc cử tri trực tiếp tại phường, xã chưa nhiều; tiếp xúc cử tri theo giới, ngành còn ít.
- Nội dung tiếp xúc cử tri chủ yếu là báo cáo tóm tắt nội dung kết quả kỳ họp Quốc hội hoặc kết quả kỳ họp Quốc hội. Đặc biệt khi tiếp xúc cử tri sau kỳ họp Quốc hội, phần lớn nội dung trong Đề cương báo cáo của Đoàn thư ký kỳ họp cung cấp cho ĐBQH, cử tri đã biết khá rõ qua các phương tiện thông tin đại chúng nên dễ gây nhàm chán. Việc gửi dự án Luật để cử tri góp ý luôn được Đoàn quan tâm, tuy nhiên do việc gửi tài liệu, dự án Luật chậm và ít nên cử tri phát biểu thường xoay quanh các vấn đề bức xúc về kinh tế- hội, ít đóng góp xây dựng luật.
- Việc đeo bám, đôn đốc và theo dõi kết quả giải quyết giải quyết kiến nghị của cử tri còn hạn chế. Tại các buổi tiếp xúc, cử tri còn mong muốn được nghe đại biểu báo cáo về kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri của các cơ quan nhà nước được phản ánh tại các lần tiếp xúc cử tri trước, nhưng việc này cũng chỉ dừng ở mức báo cáo một số nội dung có chọn lọc vì không đủ thời gian và không thể báo cáo hết tất cả các kết quả giải quyết. Việc Đoàn ĐBQH thành phố tiến hành tập hợp kết quả giải quyết kiến nghị cử tri thành phố và gửi tài liệu này cho Uỷ ban Mặt trận tổ quốc quận, huyện để trả lời cho cử tri, nhưng mức độ phổ biến rộng rãi chưa cao, vì vậy ở các cuộc tiếp xúc cử tri, cử tri vẫn thường phàn nàn về việc không biết kiến nghị của mình được giải quyết đến đâu. Đặc biệt, cần có cơ chế phối hợp giữa Đoàn ĐBQH với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thành phố trong việc giải quyết các kiến nghị của cử tri thuộc thẩm quyền địa phương để tránh trùng lắp.
VI- Hoạt động đối ngoại
Đoàn ĐBQH thành phố tham gia tích cực vào các hoạt động đối ngoại của Quốc hội. Nhiều ĐBQH trong Đoàn đã tích cực tham gia vào các hoạt động của nhiều Hội nghị quốc tế do Quốc hội tổ chức; tham gia nhiều Đoàn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội đi công tác nước ngoài để trao đổi kinh nghiệm hoạt động. Trong nhiệm kỳ, Đoàn ĐBQH thành phố cũng đã tiếp nhiều Đoàn khách quốc tế đến thăm và làm việc, góp phần tăng cường quan hệ đối ngoại nghị viện.
- Đoàn ĐBQH thành phố tổ chức tốt việc tiếp các Đoàn ĐBQH tỉnh, thành bạn đến thăm và làm việc với Đoàn. Qua đó, đã trao đổi học tập những kinh nghiệm hoạt động, tăng cường mối quan hệ với các Đoàn ĐBQH các địa phương.
VII- Về hoạt động của Đoàn tại các kỳ họp Quốc hội
Đoàn ĐBQH thành phố đã tham gia đầy đủ, nghiêm túc các chương trình nghị sự của Quốc hội với tinh thần trách nhiệm cao. Các vị ĐBQH trong Đoàn đã tích cực tham gia thảo luật tổ, hội trường, tham gia chất vấn với nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết đóng góp cho Quốc hội, Chính phủ trong việc xây dựng chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng pháp luật. Trong nhiệm kỳ vừa qua, Đoàn ĐBQH thành phố đã có 689 lượt đại biểu tham gia phát biểu thảo luận về kinh tế-xã hội và xây dựng pháp luật tại tổ và Hội trường. Có 57 lượt ĐBQH thực hiện quyền chất vấn bằng văn bản và chất vấn trực tiếp tại Hội trường.
VIII-Về phương thức hoạt động; các mối quan hệ phối hợp công tác, điều kiện đảm bảo cho hoạt động của Đoàn ĐBQH TP.HCM
1-Về tổ chức và phương thức hoạt động của Đoàn ĐBQH TP.Hồ Chí Minh
Đoàn ĐBQH thành phố nhiệm kỳ khoá 12 có số lượng đại biểu là 23. Đầu nhiệm kỳ, Đoàn có 01 Trưởng Đoàn chuyên trách và 01 Phó Đoàn chuyên trách; từ sau kỳ họp thứ 7-QH12, do đồng chí Trưởng Đoàn chuyên trách chuyển công tác nên đ/c Chủ tịch HĐND thành phố được bầu kiêm nhiệm Trưởng Đoàn; từ tháng 8/2010, Đoàn có thêm 01 Phó Đoàn chuyên trách.
Đoàn ĐBQH thành phố hoạt động theo nguyên tắc tập thể, lãnh đạo Đoàn giữ vai trò điều hoà, phối hợp hoạt động giữa các ĐBQH trong Đoàn, tổ chức các hoạt động của Đoàn theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội và Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH và Nội quy kỳ họp của Quốc hội. Lãnh đạo Đoàn thực hiện cơ chế làm việc giao ban định kỳ hàng tuần, do Trưởng Đoàn chủ trì để bàn bạc và đề ra phương hướng, chương trình công tác tháng, 6 tháng, năm; phân công các vị ĐBQH tham gia các mặt hoạt động thường xuyên của Đoàn ĐBQH TP.
Trong điều kiện các ĐBQH trong Đoàn hoạt động kiêm nhiệm, lại công tác ở nhiều cơ quan trên nhiều lĩnh vực khác nhau, Trưởng, Phó Đoàn ĐBQH thành phố đã làm tốt vai trò tổ chức hoạt động và phân công ĐBQH trong Đoàn thực hiện các mặt công tác; giữ mối liên hệ chặt chẽ với Chủ tịch Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, với các cấp chính quyền, với Mặt trận Tổ quốc và cử tri ở địa phương; là đầu mối liên hệ giữa ĐBQH với các cơ quan của Quốc hội.
2-Về hoạt động của ĐBQH chuyên trách nhiệm kỳ khoá XII
Trong nhiệm kỳ, Thường trực Đoàn duy trì các hoạt động thường xuyên sau:
- Giúp Trưởng Đoàn giữ vai trò điều hoà, phối hợp và làm nòng cốt trong các hoạt động của Đoàn để thực hiện đúng chương trình công tác đã đề ra, đặc biệt trong lĩnh vực khảo sát, giám sát, lấy ý kiến xây dựng luật, tiếp công dân của Đoàn ĐBQH TP; trực tiếp quản lý kinh phí hoạt động của Đoàn.
- Đại diện cho Đoàn ĐBQH thành phố thực hiện việc phối hợp và tham gia các hoạt động của cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể tại địa phương; tham dự các buổi làm việc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các Uỷ ban của Quốc hội trên địa bàn thành phố; tham dự và phát biểu tham luận tại một số Hội nghị chuyên đề do các cơ quan của Quốc hội tổ chức.
- Chỉ đạo củng cố bộ máy và hoạt động của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố để thực hiện tốt công tác tham mưu, phục vụ Đoàn ĐBQH thành phố.
Với khối lượng công việc lớn, nhưng các ĐBQH chuyên trách Đoàn ĐBQH thành phố đã nỗ lực hoàn thành chức trách, nhiệm vụ theo phân công, thể hiện vai trò nòng cốt và tinh thần trách nhiệm cao, sáng tạo trong tổ chức các mặt hoạt động của Đoàn, giữ mối quan hệ hài hòa, gắn bó với HĐDT, các Uỷ ban của Quốc hội, các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể ở địa phương, góp phần quan trọng vào kết quả hoạt động của Đoàn trong nhiệm kỳ khoá XII.
3-Về quan hệ phối hợp công tác
Trong nhiệm kỳ XII, sự quan hệ phối hợp của Đoàn ĐBQH thành phố với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, với các cấp chính quyền, với Hội đồng nhân dân thành phố, Uỷ ban MTTQ thành phố và các tổ chức thành viên, các quận, huyện, các sở, ngành hữu quan của thành phố ngày càng có nhiều tiến bộ.
3.1-Với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội
Đoàn ĐBQH thành phố giữ mối liên hệ thường xuyên với Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và Văn phòng Quốc hội. Thực hiện chế độ báo cáo tình hình hoạt động đúng quy định. ĐBQH trong Đoàn tham gia tích cực vào các hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong việc tổ chức các hội nghị, hội thảo và đón tiếp khách quốc tế. Đoàn ĐBQH thành phố còn phối hợp chặt chẽ với các Đoàn của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội vào làm việc tại thành phố.
3.2-Với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban MTTQ thành phố, Uỷ ban MTTQ các quận, huyện
-Đoàn ĐBQH thành phố giữ mối quan hệ chặt chẽ với Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố theo quy định của Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. Các cuộc giám sát của Đoàn thường xuyên mời đại diện của Thường trực và các Ban Hội đồng nhân dân, đại diện Uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố cùng tham dự. Đoàn ĐBQH thành phố cũng thường xuyên làm việc với Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thành phố để trao đổi, góp ý về việc thi hành Hiến pháp, pháp luật và việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. phối hợp tổ chức để các ĐBQH trong Đoàn nghe và khảo sát các chuyên đề về kinh tế- xã hội, phối hợp tổ chức làm việc với các Đoàn của các Uỷ ban của Quốc hội vào làm việc với thành phố, phối hợp xem xét giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của UBND thành phố... Đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham dự thường xuyên các kỳ họp của Hội đồng nhân dân thành phố.
- Đoàn ĐBQH thành phố phối hợp với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc các quận, huyện trong việc lấy ý kiến của các sở, ngành, các quận huyện và cử tri tham gia xây dựng các dự án luật, đặc biệt là các dự án luật được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tổ chức lấy ý kiến toàn dân.
- Đoàn ĐBQH thành phố giữ mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên với Uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố và các tổ chức thành viên, với Uỷ ban Mặt trận tổ quốc các quận huyện trong công tác tổ chức tiếp xúc cử tri. Tại kỳ họp cuối năm, các vị ĐBQH và các Tổ ĐBQH đều có báo cáo với cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu và tình hình hoạt động của Đoàn ĐBQH thành phố đúng theo quy định của pháp luật.
- Các báo cáo chính thức của Đoàn ĐBQH thành phố về tổng hợp ý kiến xây dựng các dự án luật, về kết quả giám sát, về tổng hợp ý kiến kiến nghị của cử tri được gửi đến Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố để tăng cường thông tin, phối hợp, xem xét, giải quyết trong phạm vi trách nhiệm của từng cơ quan.
4- Về bộ máy giúp việc
Từ đầu nhiệm kỳ đến 10/4/2009, công tác tham mưu. phục vụ hoạt động của Đoàn ĐBQH thành phố do Văn phòng Đoàn ĐBQH thành phố đảm nhiệm. Thực hiện Nghị quyết 545/2007/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực HĐND thành phố đã ban hành Quyết định số 65/QĐ-HĐND TP ngày 10/4/2009 về việc thành lập Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố trên cơ sở sát nhập tổ chức, bộ máy Văn phòng Đoàn ĐBQH thành phố và bộ phận tham mưu phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân thành phố.
Sau khi có Quyết định thành lập Văn phòng, quyết định bổ nhiệm Chánh, Phó văn phòng, lãnh đạo Văn phòng đã phân công nhiệm vụ: Chánh văn phòng phụ trách chung và 01 Phó văn phòng phụ trách Phòng công tác ĐBQH; đồng thời ra quyết định bổ nhiệm Trưởng phó, phòng; từng bước kiện toàn cơ cấu tổ chức của Văn phòng. Đến nay, tổng số cán bộ, công chức và nhân viên phục vụ cơ quan là 23 người, trong đó: Phòng Công tác ĐBQH: 15 người; Phòng Công tác HĐND: 8 người.
Trong hoạt động, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố luôn giữ mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Thành uỷ, Văn phòng Uỷ ban nhân dân thành phố, Văn phòng Uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc các quận huyện, sở ngành chức năng của thành phố. Đồng thời, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố cũng chủ động phối hợp với các Vụ chức năng của Văn phòng Quốc hội trong việc tổ chức các buổi giám sát, khảo sát, hội thảo, hội nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trên địa bàn thành phố..
- Mặc dù về tổ chức bộ máy, biên chế chưa thực sự ổn định, nhưng tập thể cán bộ công chức Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố đã nỗ lực vượt khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Trong nhiệm kỳ qua, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố đã phục vụ chu đáo và tham mưu có hiệu quả các mặt hoạt động của Đoàn ĐBQH thành phố. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ công chức Văn phòng còn thiếu so với khối lượng công việc rất nặng nề, năng lực, chất lượng tham mưu và kinh nghiệm phục vụ nhìn chung vẫn cần phải tiếp tục nâng cao hơn nữa mới có thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong đổi mới hoạt động của cơ quan dân cử .
6-Về các điều kiện đảm bảo khác trong hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH thành phố
-Trong nhiệm kỳ, Đoàn ĐBQH thành phố đảm bảo các chế độ cho ĐBQH đúng theo quy định. Cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của Văn phòng được quan tâm đầu tư để phục vụ tốt cho hoạt động của ĐBQH, Đoàn ĐBQH. Kinh phí phục vụ hoạt động của Đoàn ĐBQH thành phố được quản lý, sử dụng chặt chẽ, tiết kiệm, đúng quy định, không để xảy ra sai phạm.
-Đoàn ĐBQH thành phố luôn quan tâm đầu tư hạ tầng ứng dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động của mình. Thực hiện việc quản lý đơn thư khiếu nại, tố cáo bằng phần mềm tin học. Tiếp tục nâng cấp website Đại biểu nhân dân thành phố (www.dbnd.hochiminhcity.gov.vn), nhằm tạo kênh thông tin quan trọng để ghi nhận ý kiến, kiến nghị, góp ý của cử tri thành phố về chủ trương, chính sách, xây dựng pháp luật; đồng thời thông tin đầy đủ, kịp thời về chương trình công tác và các mặt hoạt động thường xuyên của Đoàn ĐBQH, của HĐND thành phố.
PHẦN 2
NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ THỰC TIỄN
VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
I-Đánh giá chung về hoạt động của Đoàn ĐBQH thành phố nhiệm kỳ khoá XII
1- Kết quả hoạt động
Đoàn ĐBQH thành phố nhiệm kỳ khoá XII đã có nhiều nỗ lực đổi mới phương thức hoạt động để ngày càng thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong các lĩnh vực xây dựng pháp luật, giám sát, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, giữ mỗi quan hệ công tác và phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương, ở trung ương và các hoạt động tại kỳ họp Quốc hội,
Nhìn lại cả nhiệm kỳ khoá 12, Đoàn ĐBQH thành phố đã làm tròn nhiệm vụ chính trị của mình, có nhiều đóng góp tích cực trong các lĩnh vực hoạt động của Quốc hội, thể hiện được vai trò là Đoàn ĐBQH của một thành phố lớn, góp phần vào kết quả hoạt động chung của Quốc hội. Các ĐBQH trong Đoàn đều giữ mối liên hệ thường xuyên với cử tri, luôn có nhiều cố gắng để xứng đáng là người đại biểu của nhân dân.
2-Tồn tại
Hoạt động của Đoàn ĐBQH thành phố nhiệm kỳ khoá XII tuy đạt nhiều kết quả khả quan, nhưng ĐBQH và tập thể Đoàn ĐBQH vẫn thấy rằng còn nhiều mặt tồn tại, chưa được như mong muốn. Nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân tuy được ĐBQH ghi nhận phản ảnh nhưng quá trình đeo bám, đôn đốc giải quyết chưa đến nơi, đến chốn… Công tác tiếp xúc cử tri chưa khắc phục tình trạng tiếp xúc với “đại cử tri”. Trong hoạt động giám sát, nhất là trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, còn có những khó khăn và hạn chế nên chưa đạt hiệu quả cao. Nhiều nội dung bức xúc do cử tri kiến nghị - một mặt chưa được thể chế hoá bằng luật pháp hoặc chậm được hướng dẫn, mặt khác có nhiều quy định bất cập lại chậm được sửa đổi, bổ sung…Bên cạnh đó, hầu hết các ĐBQH đều hoạt động kiêm nhiệm nên quỹ thời gian dành cho hoạt động Quốc hội còn hạn chế. Nguyên nhân cụ thể của các mặt tồn tại đã trình bày ở Phần 1.
3-Bài học kinh nghiệm
Từ những kết quả và các mặt còn hạn chế trong nhiệm kỳ vừa qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây trong tổ chức và hoạt động của Đoàn ĐBQH thành phố:
Một là, mọi hoạt động của Quốc hội nói chung, các cơ quan của Quốc hội và Đoàn ĐBQH nói riêng phải bám sát đường lối đổi mới toàn diện của Đảng trên các lĩnh vực để thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và có sự phối hợp tốt với chính quyền, với mặt trận và các ban ngành đoàn thể là yêu cầu quan trọng để Đoàn ĐBQH vừa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, vừa góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn và nhiệm vụ ĐBQH.
Hai là, Gắn bó mật thiết với cử tri, liên hệ thường xuyên với cử tri không chỉ là nhiệm vụ của ĐBQH được pháp luật quy định, mà còn là yêu cầu bức thiết để ĐBQH và Đoàn ĐBQH nắm bắt được thực tiễn, nguyện vọng, ý chí của người dân và làm tròn trách nhiệm là người đại diện cho tiếng nói, ý chí và nguyện vọng của cử tri. Ý kiến của cử tri là một trong những kênh thông tin quan trọng không thể thiếu được trong quá trình ĐBQH và Đoàn ĐBQH thực thi nhiệm vụ, qua đó góp phần thể chế hoá vào các văn bản của pháp luật, làm cho các văn bản pháp luật gắn với thực tiễn, với cuộc sống.
Ba là, Trong điều kiện đa số ĐBQH kiêm nhiệm, phải phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động, không ngừng cải tiến phương thức, nội dung tổ chức hoạt động trên mặt công tác, đặc biệt là nâng cao vai trò, trách nhiệm của đại biểu chuyên trách nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ có chất lượng và hiệu quả, đáp ứng kịp thời các yêu cầu, mục tiêu đã đề ra.
Bốn là, cần xây dựng bộ máy giúp việc có chất lượng, năng lực để làm tốt chức năng tham mưu, giúp việc cho ĐBQH và Đoàn ĐBQH.
II-Những kiến nghị
1-Về nội dung hoạt động
Trong phạm vi tổng kết nhiệm kỳ khoá XII của Quốc hội, liên quan đến thẩm quyền và nội dung hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH, xin kiến nghị :
1.1-Về xây dựng pháp luật
a-Việc Đoàn ĐBQH tổ chức lấy ý kiến đóng góp xây dựng luật đã được pháp luật hiện hành quy định là một trong các quy trình xây dựng pháp luật, tuy nhiên các quy định này hiện vẫn còn chung chung, chỉ mới dừng lại ở quy định có tính nguyên tắc. Cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành theo hướng quy định cụ thể hơn về cơ chế, quy trình Đoàn ĐBQH tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, đơn vị và chuyên gia đóng góp cho các dự án luật; quy định và hướng dẫn rõ về việc Đoàn ĐBQH ký kết hợp đồng thuê chuyên gia nghiên cứu và nghiệm thu kết quả nghiên cứu, đóng góp cho dự án luật.
b-Một trong những vướng mắc lớn nhất hiện nay là các dự án luật ngày càng nhiều nhưng thường được gửi về địa phương chậm lại yêu cầu báo cáo trong thời gian ngắn nên việc chuẩn bị nội dung hội thảo còn bị động. Mặc dù Đoàn ĐBQH thành phố đã chủ động xây dựng chương trình tổ chức lấy ý kiến nhưng vẫn còn tình trạng một số cuộc hội thảo được tổ chức dồn dập trong một thời gian ngắn, quỹ thời gian để các đại biểu nghiên cứu vẫn còn ít. Vấn đề đặt ra là cần tạo điều kiện để ĐBQH, Đoàn ĐBQH tiếp cận với dự thảo và các tài liệu tham khảo liên quan đến dự án luật ngay từ đầu, từ đó mới có thể huy động các cơ quan, tổ chức, nhà khoa học ở địa phương tham gia đóng góp ý kiến một cách sâu rộng, thiết thực và nâng cao hiệu quả, chất lượng ý kiến đóng góp.
c- Từ thực tiễn hoạt động những năm qua, Đoàn ĐBQH thành phố thấy rằng, cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan chính quyền, mặt trận, đoàn thể của thành phố, để phản ảnh và đề xuất với Trung ương những vấn để bức xúc từ thực tiễn sinh động của thành phố, chủ động đề xuất sáng kiến xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố nói riêng và của cả nước nói chung. Tuy nhiên, với quy định hiện hành thì yêu cầu này chưa thực hiện được. Kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có hướng dẫn về cơ chế cũng như sửa đổi các quy định liên quan, tạo điều kiện để ĐBQH chủ động đề xuất sáng kiến pháp luật cũng như tham gia và việc soạn thảo dự án luật.
d- Đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo các cơ quan soạn thảo luật thực hiện nghiêm quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, theo đó khi trình thông qua dự án luật phải kèm theo dự thảo văn bản hướng dẫn. Quốc hội chỉ tiến hành xem xét thông qua một dự án luật nếu có đầy đủ dự thảo văn bản hướng dẫn kèm theo để tránh tình trạng chậm ban hành văn bản hướng dẫn hoặc văn bản hướng dẫn lại có quy định mâu thuẫn với luật. Hướng tới nên thành lập Viện xây dựng pháp luật trực thuộc Quốc hội để đảm nhận công tác soạn thảo dự án luật, không nên giao cho các Bộ, Ngành soạn thảo chủ yếu như hiện nay.
đ-Trong điều kiện hiện nay, thì việc quy định cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền ban hành Pháp lệnh là cần thiết. Tuy nhiên, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cần gửi các dự án Pháp lệnh cho các Đoàn ĐBQH để thăm dò và tham khảo ý kiến.
e- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện đúng và kịp thời chức năng giải thích Hiến pháp và pháp luật, vì thực tế vẫn có nhiều nội dung pháp luật quy định chưa rõ nhưng chưa được UBTVQH giải thích. Đồng thời, quy định cơ chế phân biệt và xác định phạm vi giữa việc giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh với việc hướng dẫn thi hành của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
g-Trong việc chuẩn bị Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, cần chú ý đảm bảo tính khả thi. Khi xây dựng chương trình, cơ quan soạn thảo cần cho biết: sự cần thiết, cơ sở lý luận và thực tiễn, của việc xây dựng dự án luật, tính khoa học trong việc xây dựng thứ tự ưu tiên, các điều kiện vật chất để đảm bảo xây dựng đúng tiến độ... để ĐBQH có cơ sở xem xét, quyết định.
1.2-Trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Cần tạo điều kiện để ĐBQH được cung cấp thông tin chính xác và đầy đủ (kể cả các ý kiến phản biện của các nhà khoa học) để việc tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước đạt hiệu quả cao.Nghiên cứu xây dựng quy chế về cung cấp thông tin để Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước một cách tốt nhất.
1.3-Trong lĩnh vực giám sát
a- Tiến hành tổng kết việc thực hiện Luật hoạt động giám sát của Quốc hội để rút ra những vấn đề cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế, gắn với việc tổng kết các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan như Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của ĐBQH, Đoàn ĐBQH… để có thể sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ các quy định về quyền giám sát của Quốc hội, UBTVQH, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH.
c- Tiếp tục cải tiến phương thức tổ chức hoạt động giám sát, đẩy mạnh các hình thức giám sát trực tiếp tại cơ sở. Nâng cao chất lượng của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, đặc biệt là việc chất vấn giữa hai kỳ họp. Đây là yêu cầu bức xúc nhằm tăng cường hiệu lực giám sát của Quốc hội, ĐBQH. Nâng cao chất lượng các kiến nghị sau giám sát và thực hiện giám sát lại vấn đề đã kiến nghị của các cuộc giám sát trước.
d- Xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giữa Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, giữa các cơ quan của Quốc hội với Hội đồng nhân dân, Đoàn ĐBQH để góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan theo quy định của pháp luật; khắc phục việc chồng chéo trong giám sát.
đ- Tăng cường việc huy động chuyên gia vào công tác giám sát của Quốc hội. Đồng thời, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có văn bản hướng dẫn rõ hơn về cơ chế và quy định về thẩm quyền, chi phí cho chuyên gia.
1.4-Về tiếp xúc cử tri
a -Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cần xác lập cơ chế giám sát việc giải quyết kiến nghị cử tri cụ thể, rõ ràng hơn; hướng dẫn cụ thể về thời gian các cơ quan hữu quan phải trả lời kiến nghị cử tri. Thực tế hiện nay việc trả lời còn chậm, không thống nhất, nhiều vấn đề được tập hợp và phản ảnh tại kỳ họp Quốc hội, nhưng đến kỳ họp sau mới có văn bản trả lời.
b-Quy định cơ chế phối hợp và trách nhiệm cụ thể của các cơ quan nhà nước trong giải quyết kiến nghị cử tri. Bổ sung quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn và cơ chế phối hợp của Đoàn ĐBQH, Thường trực HĐND và UBMTTQ cấp tỉnh trong giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương.
c-Xác định rõ trách nhiệm đối với các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức để ĐBQH tiếp xúc cử tri và nghiên cứu, giải quyết các kiến nghị của cử tri. Ví dụ: cơ quan có trách nhiệm cử đại diện tham dự tiếp xúc cử tri mà không tham dự thì chịu trách nhiệm như thế nào? Hứa giải quyết kiến nghị cử tri nhưng không giải quyết thì xử lý ra sao?
d- Tổ chức tập huấn bồi dưỡng; nâng cao kỹ năng tiếp xúc cử tri cho ĐBQH nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói chung cũng như mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri nói riêng.
đ- Bên cạnh việc tập hợp kết quả giải quyết kiến nghị cử tri gửi cho ĐBQH và Đoàn ĐBQH để thông báo cho cử tri, cần nghiên cứu tạo thêm các kênh để thông tin đến cử tri nhanh hơn. Ví dụ : quy định đăng tải kiến nghị cử tri và kết quả giải quyết kiến nghị cử tri trên phương tiện thông tin đại chúng, trên website của Quốc hội và UBND các tỉnh, thành phố, quận, huyện, niêm yết công khai tại trụ sở UBND phường, xã…để đông đảo cử tri có thể truy cập, theo dõi (trừ một số nội dung thuộc về tài liệu nội bộ bí mật quốc gia).
e-Các cuộc tiếp xúc cử tri một mặt phải đảm bảo thông báo công khai cho rộng rãi cử tri biết như quy định của Nghị quyết liên tịch, mặt khác phải đảm bảo yêu cầu an ninh, trật tự tại buổi tiếp xúc. Do đó, cần hướng dẫn rõ về nội quy của hội nghị tiếp xúc, quyền và trách nhiệm cụ thể của chủ tọa và những người tham gia tiếp xúc, thời lượng phát biểu, quy định rõ việc cử tri chỉ phát biểu những kiến trọng tâm, có chất lượng liên quan chương trình nghị sự của kỳ họp Quốc hội; những nguyện vọng bức xúc của cử tri thuộc thẩm quyền giải quyết của Quốc hội, Chính phủ và các Bộ Ngành. Nếu cử tri có vấn đề khiếu nại, tố cáo, thì cơ quan chủ trì buổi tiếp xúc phải hướng dẫn cử tri liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để nghiên cứu, giải quyết theo quy định của pháp luật.
g-Tài liệu liên quan đến nội dung kỳ họp Quốc hội, nhất là các dự án luật cần gửi sớm về địa phương để có đầy đủ thông tin, làm cơ sở cho cử tri nghiên cứu, phát biểu đóng góp đúng trọng tâm và có chất lượng hơn.
1.5-Về tiếp công dân, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
a- Sớm sửa đổi, bổ sung các luật hiện hành có liên quan để hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo.Về lâu dài, cần xác lập cơ chế chuyển tất cả các vụ kiện hành chính sang cơ quan tòa án giải quyết nhằm khắc phục tình trạng khiếu nại kéo dài tại các cơ quan hành chính, tạo sự bình đẳng trong tài phán hành chính giữa các chủ thể có liên quan.
b- Tập trung chỉ đạo các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương từng bước nâng cao hiệu quả quản lý hành chính, khắc phục những tồn tại, yếu kém trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân để giải quyết căn bản các khiếu nại tố cáo đông người, vượt cấp, kéo dài. Tập trung tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật một cách kiên quyết, triệt để nhằm đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền.
c- Xây dựng cơ chế khen thưởng đối với những trường hợp có thành tích trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, những công dân có đóng góp đấu tranh, phát hiện, xử lý các vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng. Đồng thời, ban hành chế tài xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo; tố cáo sai sự thật gây tổn hại uy tín, danh dự của cán bộ,công chức.
d- Cần có biện pháp chế tài phù hợp đối với những cơ quan có thẩm quyền vi phạm thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo phiếu chuyển của Đoàn ĐBQH. Có những vụ việc, Đoàn ĐBQH có văn bản đôn đốc rất nhiều lần nhưng vẫn không có hồi âm từ phía cơ quan chức năng. Hiện nay, trong Luật khiếu nại, tố cáo vẫn chưa có quy định chế tài cụ thể đối với những trường hợp trên nên Đoàn ĐBQH cũng không có hướng xử lý đối với trường hợp giải quyết chậm trễ.
đ- Kiến nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 228/UBTVQH về việc ĐBQH tiếp công dân cho phù hợp với tình hình thực tế. Đề nghị quy định ĐBQH có quyền từ chối tiếp người khiếu nại trong các trường hợp những người này đã được tiếp hoặc ĐBQH khác tiếp về cùng một nội dung và đã được chuyển đơn, nội dung khiếu nại không có tình tiết mới; hoặc nội dung khiếu nại đã được các cơ quan hữu quan giải quyết đúng pháp luật nhưng vẫn thường xuyên đến nơi tiếp công dân đòi gặp ĐBQH.
2-Về tổ chức của Quốc hội
2.1-Thực tiễn nhiệm kỳ qua cho thấy việc tăng thêm số lượng cần thiết ĐBQH hoạt động chuyên trách ở các Ủy ban của Quốc hội và các Đoàn ĐBQH ở địa phương là chủ trương đúng đắn. Để đáp ứng yêu cầu này, cần sửa đổi đồng bộ Luật Tổ chức Quốc hội, Luật bầu cử ĐBQH, trong đó chú trọng đến các nội dung: Hướng dẫn về cơ cấu Đại biểu chuyên trách ngay từ khi chuẩn bị bầu cử; không bố trí số dư quá nhiều ở một đơn vị bầu cử. Xác định lộ trình cụ thể về tăng tỷ lệ ĐBQH chuyên trách. Một yêu cầu đặt ra là số lượng ĐBQH chuyên trách phải gắn với chất lượng, đồng thời quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn của người ứng cử ĐBQH. Mặt khác, cần nghiên cứu không cấu tạo nhiều các chức danh lãnh đạo cơ quan hành pháp vào Quốc hội để các đồng chí này có thời gian tập trung cho công việc điều hành, lãnh đạo ở ngành và địa phương mình. Cơ cấu ĐBQH trong 1 đơn vị bầu cử không chỉ căn cứ vào tiêu chí số lượng cử tri, mà cần gắn kết với các tiêu chí khác (về phạm vi địa bàn ứng cử, điều kiện kinh tế xã hội…), vì thực tế hiện nay có đơn vị bầu cử gồm 4 quận, huyện với địa bàn rộng lớn, nhưng số lượng ĐBQH do căn cứ vào số lượng cử tri nên chỉ có 3 đại biểu như các đơn vị khác, rất khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ.
2.2-Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH tuy khá đầy đủ, nhưng còn thiếu cơ chế và biện pháp để đảm bảo thực hiện quyền hạn của mình, ví dụ: quy định về bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn yêu cầu phải có 20% tổng số ĐBQH đề nghị; xử lý trách nhiệm đối với các cơ quan hữu quan không giải quyết, không trả lời hoặc trả lời chung chung các kiến nghị sau giám sát, các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân… Đề nghị rà soát các văn bản pháp luật có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn ĐBQH, Đoàn ĐBQH như Luật Bầu cử ĐBQH, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH… để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
2.3-Trong điều kiện hầu hết các ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm, thì Đoàn ĐBQH đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và tạo điều kiện để các ĐBQH hoạt động. Tuy nhiên, cách thức tổ chức, quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn ĐBQH như hiện nay còn mang tính hành chính, cần tiếp tục nghiên cứu, xác định rõ địa vị pháp lý của Đoàn ĐBQH, mối quan hệ giữa lãnh đạo Đoàn với các ĐBQH và mối quan hệ giữa Đoàn ĐBQH với cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan, đoàn thể ở địa phương để phát huy tốt hơn vai trò, nâng cao hiệu quả hoạt động của Đoàn ĐBQH và cá nhân ĐBQH.
2.4-Có cơ chế thích hợp để ĐBQH thực hiện tốt chức năng đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử và nhân dân cả nước. Ngoài ra, vai trò, chức năng đại diện cho cử tri trên địa bàn không phải riêng của ĐBQH, mà còn của các đại biểu HĐND các cấp. Việc phối hợp và phân định chức năng đại diện của các chủ thể này trong giải quyết các kiến nghị, nguyện vọng của cử tri trong thực tế vẫn còn trùng lắp, thiếu sự phối hợp giữa ĐBQH và Đại biểu Hội đồng nhân dân. Đề nghị có hướng dẫn cụ thể về cơ chế phối hợp của đại biểu dân cử các cấp trong việc thực hiện chức năng đại diện cho nhân dân, nhất là trong đôn đốc, theo dõi, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri tại địa phương.
2.5- Cần tăng cường các chương trình tập huấn về kỹ năng hoạt động của ĐBQH. Đồng thời quy định và hướng dẫn cụ thể hơn về cơ chế (quy trình, kinh phí, về chế độ đãi ngộ...) để Đoàn ĐBQH huy động được nhiều chuyên gia giỏi tham gia tư vấn, hiến kế trong các mặt hoạt động của Đoàn ĐBQH tại địa phưong. Cải tiến mạnh mẽ việc cung cấp thông tin cho ĐBQH, các kênh thông tin phải đa dạng, phản ảnh đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn. Chỉ đạo tăng cường, kiện toàn nhân sự, bộ máy tham mưu, phục vụ cho Đoàn đại biểu Quốc hội.