BAN CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 _______________ Số : 123 /BC-BCĐTPHCM | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ____________________________________ Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 3 năm 2013 |
BÁO CÁOTỔNG HỢP Ý KIẾN CỦA NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
(Đợt 1: từ ngày 02 tháng 01 đến ngày 05 tháng 03 năm 2013)--------o0o--------
Thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội; Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28 tháng 12 năm 2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Công văn số 239/HD-UBDTSĐHP ngày 23 tháng 02 năm 2013 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 về Hướng dẫn tập hợp, tổng hợp ý kiến của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992;
Ban Chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 báo cáo tổng hợp ý kiến của nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (Đợt 1: từ ngày 02 tháng 01 năm 2013 đến ngày 05 tháng 03 năm 2013) như sau:
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VIỆC LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN:
1. Công tác triển khai, quán triệt Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân thành phố về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992:
- Căn cứ Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28 tháng 12 năm 2012 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28 tháng 12 năm 2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ban Thường vụ Thành ủy đã sớm ban hành Quyết định số 1746-QĐ/TU ngày 04 tháng 01 năm 2013 về thành lập Ban Chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; ban hành Chỉ thị số 08-CT/TU ngày 05 tháng 01 năm 2013 của Ban Thường vụ Thành ủy về quán triệt và triển khai thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Ban Chỉ đạo lấy ý kiến nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (gọi tắt là Ban Chỉ đạo thành phố) xây dựng Kế hoạch số 14/KH-BCĐ ngày 09 tháng 01 năm 2013 tổ chức lấy ý kiến nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; thông báo phân công nhiệm vụ các thành viên Ban Chỉ đạo. Trên cơ sở đó, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố và các thành viên Ban Chỉ đạo theo chức năng, nhiệm vụ đã xây dựng kế hoạch, văn bản hướng dẫn cơ sở tổ chức thực hiện lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng như xây dựng dự toán, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí.
- Tổ chức Hội nghị triển khai thực hiện Kế hoạch 14/KH-BCĐ ngày 09 tháng 01 năm 2013 của Ban Chỉ đạo thành phố và Kế hoạch số 210/KH-UBND ngày 11 tháng 01 năm 2013 của Ủy ban nhân dân thành phố đến lãnh đạo các Sở - Ban - ngành, đoàn thể, các doanh nghiệp nhà nước và các địa phương (Hội đồng nhân dân xã, thị trấn) trên toàn thành phố. Hội nghị đã mời Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Thế Liên - Thứ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo những nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, sự cần thiết, quan điểm sửa đổi và kết cấu của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Trên cơ sở triển khai Kế hoạch của Ban Chỉ đạo và Ủy ban nhân dân thành phố, các cấp ủy, thủ trưởng đơn vị, lãnh đạo các Sở - Ban – ngành, đoàn thể thành phố đã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Thành lập Tổ thư ký gồm 23 thành viên giúp việc cho Ban Chỉ đạo thành phố, đồng thời xây dựng và hướng dẫn các cơ quan, đơn vị đề cương báo cáo tổng hợp kết quả lấy ý kiến nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Ban Chỉ đạo thành phố, Thường trực và các Ban Hội đồng nhân dân thành phố tăng cường kiểm tra việc tổ chức thực hiện ở cơ sở. Qua kiểm tra cho thấy nhiều đơn vị chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ, nội dung được tiến hành sâu rộng để cán bộ, chiến sĩ, công chức – viên chức và nhân dân tham gia đóng góp ý kiến.
Nhìn chung, công tác triển khai, quán triệt Chỉ thị của Bộ Chính trị, Thành ủy, Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được các cấp, các ngành chỉ đạo tích cực, chủ động xây dựng và điều chỉnh, bổ sung kịp thời các Kế hoạch, tổ chức triển khai có hệ thống, đồng bộ từ thành phố đến cơ sở, công tác tổ chức lấy ý kiến được chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ, tài liệu được phát hành kịp thời đến từng ngành, từng đơn vị, từng hộ gia đình để nghiên cứu đóng góp.
Tình hình an ninh trật tự trong thời gian tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đảm bảo ổn định. Các đơn vị, địa phương tăng cường trách nhiệm, nâng cao cảnh giác, không để các thế lực thù định lợi dụng việc tổ chức lấy ý kiến để chống phá, xuyên tạc, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất lòng tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam, vào chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Công tác tuyên truyền, phổ biến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đến các tầng lớp nhân dân thành phố:
- Ban Chỉ đạo thành phố thực hiện 600 đĩa VCD do PGS.TS Hoàng Thế Liên - Thứ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo những nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để gửi đến các đơn vị sở - ngành, quận - huyện và đoàn thể làm tài liệu triển khai trong cơ quan, đơn vị và nhân dân.
- Ban Tuyên giáo Thành ủy và Sở Tư pháp tham mưu lập danh sách báo cáo viên thành phố, hướng dẫn thành lập đội ngũ báo cáo viên cơ sở. Tổ chức xây dựng đề cương tuyên truyền (power point) và tài liệu tuyên truyền cho báo cáo viên và cơ sở; mở hội nghị tập huấn cho các Báo cáo viên tham gia tuyên truyền Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhằm phục vụ tốt việc tuyên truyền, giới thiệu về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đến các tầng lớp nhân dân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Các báo, đài thành phố đã mở chuyên trang, chuyên mục lấy ý kiến nhân dân, giới thiệu về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tập trung phản ánh tình hình triển khai, tổ chức hội nghị lấy ý kiến tại cơ sở và những đóng góp ý kiến của các cá nhân, tập thể, các chuyên gia, các nhà khoa học và nhân dân. Đến thời điểm báo cáo đã có 153 tin, bài được đăng tải trên các báo thành phố (Báo Sài Gòn Giải Phóng, Báo Người Lao động, Báo Phụ nữ, Báo Tuổi trẻ, Báo Pháp luật thành phố và Báo Công an thành phố). Đài truyền hình thành phố và Đài Tiếng nói nhân dân thành phố đã tăng thêm chương trình và thời lượng để tuyên truyền cho đợt sinh hoạt chính trị này; qua việc chuyển tải những ý kiến góp ý của nhân dân trên các kênh phát sóng hàng ngày, đăng tin trên các website của Đài. Bản tin quận – huyện cũng thường xuyên đưa tin phản ánh tình hình đóng góp ý kiến của cán bộ, công chức, chiến sĩ và nhân dân cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Trung tâm văn hóa 24 quận - huyện đã tập trung tổ chức xe tuyên truyền lưu động, triển khai các panô, khẩu hiệu tuyên truyền tại khu vực trung tâm thành phố và quận - huyện.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố và các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố cũng có kế hoạch phố biến và tuyên truyền sâu rộng trong lực lượng đoàn viên, hội viên và người lao động.
Thành phố Hồ Chí Minh đã gửi một bộ tài liệu gồm Bảng so sánh Hiến pháp năm 1992 với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Phiếu lấy ý kiến góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đến từng hộ dân trên toàn địa bàn thành phố (1,9 triệu bộ) và đến công nhân đang làm việc tại thành phố (01 triệu bộ). Ý kiến góp ý của các hộ dân và công nhân sẽ được tập hợp, tổng hợp và báo cáo trong đợt 2 (ngày 31 tháng 03 năm 2013).
3. Các hình thức tổ chức lấy ý kiến:
- Tổ chức các Hội nghị cán bộ công chức, Hội nghị nhân dân để lấy ý kiến của cán bộ, công chức và nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Tổ chức các hội nghị chuyên đề, hội thảo, tọa đàm theo đối tượng như đại diện các nhà khoa học; các hiệp hội trong lĩnh vực kinh tế, các doanh nghiệp; các luật sư, luật gia; các chuyên gia trong từng lĩnh vực, ngành … với số lượng khoảng 50 người mỗi hội nghị.
- Tổ chức kỳ họp chuyên đề của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn và Hội đồng nhân dân thành phố.
- Lấy ý kiến góp ý trực tiếp từ tất cả các hộ dân trên toàn thành phố và công nhân đang làm việc tại thành phố thông qua hình thức “Phiếu lấy ý kiến” phát đến từng hộ dân và từng công nhân.
Nhìn chung, việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được thực hiện đúng quy định, đúng quy trình, đúng thời gian và rộng rãi, dân chủ, khoa học bằng nhiều hình thức phù hợp với tình hình thực tế và nhiệm vụ ở mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị và quận – huyện, phường – xã và thị trấn.
Bước đầu, Thành phố tập trung thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đồng bộ cả chiều rộng và chiều sâu để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, đơn vị, tổ chức đối với việc tham gia đợt sinh hoạt chính trị pháp lý đặc biệt này và tạo mọi điều kiện để nhân dân thành phố phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia góp ý kiến cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Thành phố dành thời gian phù hợp và gửi tài liệu để nhân dân thành phố có đủ điều kiện nghiên cứu, đóng góp ý kiến.
Đến nay (05/3/2013), Thành phố chủ yếu thực hiện báo cáo tập hợp, tổng hợp các ý kiến góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý, của cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang, Mặt trận đoàn thể và nhân dân tại các hội nghị, hội thảo chuyên đề về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Từ nay đến đến ngày 31 tháng 3 năm 2013, Thành phố tiếp tục tập trung thực hiện tập hợp, tổng hợp đầy đủ, chính xác các ý kiến góp ý của từng hộ dân và công nhân trên toàn thành phố và một số cơ quan, đơn vị có báo cáo sau ngày 05 tháng 3 năm 2013.
4. Đánh giá tình hình tham gia ý kiến của nhân dân:
Qua nghiên cứu, thảo luận, đóng góp ý kiến của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân, cho thấy đây là đợt sinh hoạt chính trị pháp lý đặc biệt quan trọng, thể thiện tính dân chủ trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đa số cán bộ, công chức và người dân đều thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, có nghiên cứu kỹ khi tham gia ý kiến. Tích cực phát biểu tại hội nghị, các ý kiến đóng góp rõ ràng, thiết thực, cụ thể và sâu sắc, tập trung vào Lời nói đầu, Chương I: Chế độ chính trị, Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Chương IX: Chính quyền địa phương, Chương X: Hội đồng hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước.
Việc tổ chức lấy ý kiến của cán bộ, công chức và nhân dân được các cấp ủy chỉ đạo tập trung, khẩn trương và đồng bộ, quán triệt rõ mục đích yêu cầu, quan điểm và những vấn đề trọng tâm trong từng chương, điều, khoản của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Do đó, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức và người dân khi tham gia phát biểu bày tỏ rõ ràng chính kiến của mình, đồng tình cao với bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có nhiều điểm tiến bộ, điểm mới so với các Hiến pháp trước đây và mong muốn Hiến pháp khi xây dựng phải mang tính ổn định và lâu dài, tạo động lực cho đất nước phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh sự tích cực ủng hộ của đa số cán bộ, công chức và nhân dân thành phố trong đợt lấy ý kiến này (từ ngày 02 tháng 01 năm 2013 đến ngày 05 tháng 03 năm 2013) thì còn có một số ý kiến qua trang mạng, lợi dụng dân chủ trong việc lấy ý kiến nhân dân để công kích việc xây dựng Hiến pháp mới.
- Tính đến ngày 05 tháng 03 năm 2013, trên địa bàn thành phố đã tổ chức 2.022 hội nghị, hội thảo với 86.944 người tham gia, có 71.524 ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (chưa tổng hợp ý kiến đóng góp của từng hộ dân và công nhân qua Phiếu lấy ý kiến đã gửi). Chi tiết như sau:
+ Khối các quận, huyện: tổ chức 975 hội nghị, hội thảo chuyên đề lấy ý kiến góp ý của cán bộ, công chức và nhân dân; có 47.405 người tham gia; 14.437 ý kiến góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
+ Khối Sở - ngành: 237 hội nghị với 11.970 người tham dự, có 7.858 ý kiến góp ý.
+ Khối Mặt trận, Đoàn thể, Lực lượng vũ trang và Tư pháp: 810 Hội nghị với 27.569 người tham dự, có 49.229 ý kiến góp ý.
II. NHỮNG Ý KIẾN CHUNG VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP:
1. Về phạm vi, mức độ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp:
Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá cao Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tập trung các ý kiến như sau:
- Các ý kiến tập trung đóng góp vào các nội dung như: Lời nói đầu; chế độ chính trị; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục; bảo vệ Tổ quốc; bộ máy nhà nước, hiệu lực của Hiến pháp và quy trình sửa đổi Hiến pháp; quy định về trưng cầu ý dân.
Các ý kiến đều đánh giá cao bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được soạn thảo công phu, chặt chẽ; có nhiều điểm mới và tiến bộ; có kế thừa các Hiến pháp trước đây và đặc biệt là kế thừa và phát huy những nội dung tích cực trong Hiến pháp năm 1992 (là Hiến pháp đã tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của đất nước hơn 20 năm qua); nhận định rõ ràng xu thế phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, đồng thời khẳng định có nhiều tiến bộ trong việc bổ sung, hoàn thiện các quyền con người, quyền công dân theo xu hướng tiến bộ chung của thế giới, phù hợp với pháp luật quốc tế và thể hiện được ý chí của toàn Đảng, toàn dân; thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Văn kiện Đại hội XI của Đảng; góp phần thực hiện dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể trước những vấn đề hệ trọng của đất nước.
- Dự thảo Hiến pháp thể hiện sự phù hợp với mong muốn, ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đồng thời phù hợp với mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Những điểm sửa đổi, bổ sung của Dự thảo là cần thiết và được thực tiễn kiểm nghiệm, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại cũng như phù hợp điều kiện Việt Nam hội nhập toàn cầu, cụ thể như:
+ Thể hiện rõ Việt Nam là một quốc gia độc lập, dân chủ, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đang trên đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng; Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
+ Khẳng định rõ hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được Nhà nước, xã hội tôn trọng, bảo vệ.
+ Dự kiến thành lập các cơ quan Hiến định mới như: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước.
Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị nghiên cứu, xem xét thêm như sau:
- Có nội dung trong Hiến pháp năm 1992 vẫn còn phù hợp nhưng trong Dự thảo lần này bị bỏ đi (ví dụ như: Điều 42 sửa đổi bổ sung Điều 59 Hiến pháp năm 1992: Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí).
- Về chế độ kinh tế: Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI (số 05-NQ/TW ngày 12 tháng 07 năm 2011) định hướng: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân;” lại không được đề cập trong Hiến pháp mới.
- Trong Chương IX – Chính quyền địa phương, vấn đề đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai cần xác định rõ mô hình quản lý đô thị đặc biệt, phân định rõ mô hình, quyền hạn chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn.
- Có ý kiến đề nghị nội dung cần nói rõ hơn (Điều 21 Dự thảo: Mọi người có quyền sống) hoặc có ý kiến cho rằng không cần minh định cụ thể như Khoản 3 Điều 56 (sửa đổi, bổ sung các Điều 22, 23 và 25 của Hiến pháp 1992). Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường. Theo giá thị trường xu thế phát triển tới là thế nào? Do đó chỉ đề nghị ghi rõ theo luật định.
2. Về tên gọi, bố cục của Hiến pháp:
- Về tên gọi: có ý kiến đề nghị lấy tên gọi là Hiến pháp năm 2013 vì Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 so với Hiến pháp năm 1992 đã giảm 1 Chương, 23 Điều, giữ nguyên 14 Điều, sửa đổi, bổ sung 99 Điều, bổ sung thêm 11 Điều mới. Như vậy có thay đổi về mặt kết cấu, việc sửa đổi gần như hoàn toàn.
- Bố cục: đa số ý kiến cho rằng bố cục của bản dự thảo hợp lý, sắp xếp các chương có tính hệ thống, sau chương chế độ chính trị là chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chủ thể của động lực phát triển đất nước được tôn trọng và bảo đảm. Bản dự thảo có một số điều được ghép lại mang tính khái quát cao, phù hợp và logic.
3. Về kỹ thuật lập hiến:
- Dự thảo sửa đổi bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã kế thừa phát huy kỹ thuật lập pháp tiến bộ của các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và các kỹ thuật lập pháp tiến bộ trên thế giới. Đảm bảo cụ thể hoá các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, phát huy tính dân chủ và thể hiện được bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Dự thảo chỉ qui định những vấn đề cơ bản nên một số vấn đề cụ thể được nêu trong Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung, ghép lại nên tính khái quát cao hơn, gọn hơn.
- Tuy nhiên, có ý kiến góp ý cho rằng vẫn còn có một số điểm cần xem xét, chỉnh lý lại việc sử dụng từ ngữ như Điều 27, Khoản 1: “Bình đẳng và có quyền ngang nhau” là hai cụm từ đồng nghĩa được lặp lại;…. Nhiều ý kiến đề nghị dùng các từ thuần Việt nhất quán, có cùng nghĩa diễn đạt đầy đủ và rõ nghĩa hơn, hạn chế sử dụng từ Hán - Việt để đảm bảo sự trong sáng của tiếng Việt trong Hiến pháp.
III. NHỮNG GÓP Ý CỤ THỂ:
Các góp ý chi tiết được tập hợp trong Phụ lục đính kèm.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992:
Hiện nay, do nội dung góp ý của nhân dân vẫn đang được tiếp tục nên Thành phố sẽ cập nhật báo cáo đợt 2, trong đó chủ yếu tập hợp các ý kiến góp ý của từng hộ dân và công nhân toàn thành phố.
Trên cơ sở kết quả tập hợp, tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đợt 1, qua các ý kiến đóng góp sửa đổi, bổ sung; Ban Chỉ đạo thành phố xin kiến nghị Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp nghiên cứu, tiếp thu chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau:
1. Lời nói đầu:
Dự thảo có tính khái quát, ngắn gọn, súc tích hơn Hiến pháp 1992, nêu toàn diện chiều dài lịch sử của dân tộc, quá trình dựng nước, kháng chiến giữ nước, lao động sáng tạo để xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, nội dung “Lời nói đầu” phải được thể hiện như một “Tuyên ngôn”, hay như một “cương lĩnh”; do đó đề nghị nghiên cứu chỉnh lý rõ ràng hơn, ngắn gọn và súc tích hơn, xác định rõ mốc thời gian của lịch sử cách mạng Việt Nam cụ thể (Trải qua mấy nghìn năm lịch sử).
Lời nói đầu đảm bảo tính khái quát cao nhưng phải khẳng định và nhấn mạnh được truyền thống yêu nước, tính tự hào dân tộc, sức mạnh Đại đoàn kết, khí phách, ý chí quật cường, cần cù lao động và cốt cách của con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh, bảo vệ, xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Chương I: Chế độ chính trị
Được đa số ý kiến đồng tình, có nhiều điểm mới về chế độ chính trị, thể chế chính trị; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định. Có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung tập trung ở các nội dung sau:
- Vấn đề cần nghiên cứu, xem xét: nền tảng là liên minh giai cấp hay là khối đại đoàn kết dân tộc; việc phân định giữa công nhân, nông dân và trí thức không còn rõ ràng (không còn khoảng cách nhiều về hàm lượng tri thức và kỹ thuật).
- Tán thành sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; một số nội dung sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề quan trọng, cần thiết và phù hợp với tình hình đất nước hiện nay. Tuy nhiên, dân chủ là nội dung cơ bản và quan trọng của Hiến pháp, cho nên cần xây dựng những Chương, Điều của Hiến pháp cụ thể, rõ ràng và tập trung hơn nữa về dân chủ, cơ chế thực hiện dân chủ từ Trung ương đến cơ sở; cơ chế giám sát, kiểm tra của nhân dân về việc thực hiện dân chủ trực tiếp và đại diện. Đây còn là vấn đề mà nhiều người quan tâm hoặc có ý kiến khác nhau, thậm chí gây tranh cãi, cho nên cần được xác định trong Hiến pháp để khẳng định nội dung dân chủ mà chế độ ta thực hiện. Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có một số điều khoản đã đề cập đến nội dung dân chủ nhưng rời rạc ở nhiều nơi nên chưa thật đầy đủ và nổi bật rõ ràng, chưa đáp ứng yêu cầu cao của nhân dân.
- Cần thể hiện rõ hơn về cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, tránh lạm quyền và cơ chế nào để nhân dân giám sát ?
Điều 1:
Đề nghị chuyển đổi vị trí hai cụm từ “dân chủ” và “độc lập” nhằm để khẳng định nền độc lập là điều kiện tiên quyết sau đó mới đến dân chủ, có độc lập mới có nền dân chủ. Lý do sửa đổi, bổ sung: nhằm khẳng định nước ta là một nước độc lập và khi có độc lập mới thực hiện được vấn đề dân chủ.
Do vậy, đề nghị chỉnh sửa Điều 1 như sau: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, dân chủ, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”.
Điều 4:
Đa số ý kiến nhất trí với Điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về việc tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, đồng thời làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và Đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Có nhiều ý kiến đề nghị điều chỉnh hoặc bổ sung từ ngữ để làm rõ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, như đề nghị khẳng định rõ “Đảng Cộng sản Việt nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
- Một số ý kiến khác đề nghị bỏ Khoản 3 vì mọi người đều phải có trách nhiệm thi hành Hiến pháp chứ không riêng gì các tổ chức Đảng và đảng viên.
Điều 5:
+ Tại khoản 4, Điều 5 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đề nghị bỏ cụm từ “thiểu số” trong thực hiện chính sách phát triển toàn diện đối với tất cả các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, không thể đề cập riêng đối với dân tộc thiểu số như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và sửa lại khoản này thành:
“4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc phát huy nội lực, hoà nhập vào sự phát triển chung của đất nước”.
3. Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Có ý kiến đề nghị đổi tên tiêu đề thành “Quyền con người, quyền công dân và nghĩa vụ cơ bản” để rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của con người, công dân.
Về việc cư trú của công dân, tại Điều 24 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đề nghị bổ sung khoản 2: “Công dân có nghĩa vụ đăng ký thường trú. Mọi người có nghĩa vụ thông báo nơi cư trú mới” vì công dân bên cạnh quyền tự do đi lại và cư trú thì công dân phải có nghĩa vụ minh bạch về cư trú theo quy định của pháp luật (như chấp hành các quy định của pháp luật về cư trú; cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, tài liệu về cư trú của mình cho cơ quan, người có thẩm quyền; nộp lệ phí đăng ký cư trú; xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú khi cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu ... Đây không phải là quy định tạo phiền phức, ràng buộc người dân mà là cơ sở pháp lý rất quan trọng để Nhà nước đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của công dân (như quyền bầu cử, giáo dục, y tế, an sinh xã hội vv…) và các nghĩa vụ theo nơi cư trú, đảm bảo minh bạch các giao dịch dân sự và quyền khởi kiện khi bị thiệt hại. Đây cũng là minh định xoá bỏ tư duy “được đăng ký thường trú là quyền lợi được ban phát”.
4. Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường.
a) Điều 54 Dự thảo khẳng định “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”. Quy định này bám sát nội dung của Cương lĩnh chính trị phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 2011 (bổ sung, phát triển năm 2011), vừa phù hợp với tính chất quy định của Hiến pháp.
Tuy nhiên, về vai trò của từng thành phần kinh tế, tại Hội nghị lần thứ hai BCHTW Đảng khóa XI (Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12 tháng 7 năm 2011 của Ban Chấp hành Trung ương về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992) đã nêu: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế…”. Do đó, đề nghị Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần thể chế hóa qui định tại Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 12 tháng 7 năm 2011 “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
b) Về đất đai, Khoản 3 Điều 58 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 qui định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo qui định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội”.
Đề nghị cân nhắc bỏ qui định “và các dự án phát triển kinh tế - xã hội” vì các dự án phát triển kinh tế - xã hội không phải do Nhà nước làm chủ đầu tư thì không nên coi đó là một trong những trường hợp thật cần thiết phải thu hồi đất. Điều này sẽ tránh được tình trạng tùy tiện, lợi dụng việc nhân danh Nhà nước thu hồi để trục lợi, phục vụ cho lợi ích nhóm hoặc tiêu cực, tham nhũng trong đất đai dẫn đến khiếu kiện phức tạp, kéo dài của người sử dụng đất bị thu hồi.
c) Đề nghị bổ sung thêm lĩnh vực “y tế” trong tiêu đề và nội dung Chương III của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vì đây là lĩnh vực rất quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền con người nhưng chưa đề cập đến trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hiện nay, lĩnh vực này còn nhiều bất cập trong chiến lược chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, chưa được hiến định để đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững
d) Về giáo dục: Đề nghị Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 bổ sung qui định “Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí” (như Điều 59 Hiến pháp năm 1992) để đảm bảo quyền của công dân về học tập, qui định này của Hiến pháp năm 1992 là một tiến bộ và còn phù hợp nên đề nghị kế thừa.
5. Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc:
Nhiều ý kiến đề nghị sắp xếp lại vài cụm từ trong Điều 70 như sau:
“Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Đảng cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
6. Chương IX: Chính quyền địa phương
Đây là Chương được nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đóng góp nhiều ý kiến và tập trung với những cơ sở lý luận, giải thích, chứng minh qua thực tiển nhằm đảm bảo cho Hiến pháp ổn định lâu dài và đảm bảo cho sự phát triển phù hợp ở mỗi địa phương.
Nhiều ý kiến cho rằng:
+ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện đầy đủ quan điểm, tư tưởng của Đảng (Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12 tháng 7 năm 2011, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, nội dung 3.6), chưa hiến định đủ rõ ràng về “các quy định về tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương, xác định rõ hơn địa vị pháp lý, mô hình tổ chức, thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương; có cơ chế phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương”.
+ Chưa phân định rõ giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn; Đề nghị Hiến pháp mới cần có chế định “chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn” sao cho rõ hơn, tách bạch hơn. Cần phải Hiến định về chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn để các địa phương đủ điều kiện thì được thực hiện chính quyền đô thị.
+ Việc phân chia đơn vị hành chính, cách chia cơ quan hành chính còn những đặc điểm chưa phù hợp (quận, huyện, phường, xã, thành phố…) với yêu cầu quản lý, phát triển của những địa phương, đô thị phát triển (cả trong tương lai). Đề nghị phân định đơn vị hành chính là “thành phố trực thuộc trung ương chia thành Thành phố vệ tinh (thành phố trong thành phố) và quận, huyện. Đơn vị hành chính địa phương đặc biệt trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính ở địa phương do luật định.
Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn đô thị và địa bàn nông thôn đồng thời để bộ máy nhà nước ở đô thị thực sự hiệu quả, phù hợp với đặc thù của các đô thị (các thành phố trực thuộc Trung ương), cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Hiến pháp năm 1992, cụ thể như sau:
a) Căn cứ Nghị quyết Trung ương 5 Khóa XI, thống nhất với nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về đổi tên Chương IX của Hiến pháp năm 1992 “Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân” thành “Chính quyền địa phương”.
b) Đề nghị sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 115 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 theo hướng: Thành phố trực thuộc trung ương chia thành thành phố trực thuộc, quận, huyện và thị xã.
Theo đề xuất này sẽ có “thành phố trong thành phố”, tạo hành lang pháp lý cho việc thiết kế mô hình chính quyền đô thị một cách phù hợp ở các đô thị đặc biệt, có dự kiến cho sự phát triển đô thị mạnh mẽ trong tương lai ở các địa phương.
Về thẩm quyền phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ, đề nghị bổ sung vào Khoản 1 Điều 115 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nội dung như sau: Việc điều chỉnh địa giới hành chính cấp xã thuộc chính quyền đô thị do Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương, quyết định nhằm khắc phục việc quản lý đô thị theo phân khúc hiện nay.
c) Đề nghị bổ sung một khoản mới vào Điều 115 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau: “Việc công nhận và phân loại đô thị do luật định”.
d) Đề nghị sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 115 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nội dung như sau: “Việc thành lập chính quyền địa phương, quy định chức năng, thẩm quyền của chính quyền địa phương do luật định và phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu quản lý nhà nước ở địa bàn đô thị và địa bàn nông thôn”.
Nội dung đề xuất trên có ý nghĩa tạo ra quy định có tính nguyên tắc, nền tảng pháp lý ở tầm cao nhất để Quốc hội xây dựng Luật Tổ chức chính quyền đô thị và Luật Tổ chức chính quyền nông thôn. Đồng thời, căn cứ vào quy định của đạo luật về đô thị như đề xuất đã nêu thì tổ chức cũng như chức năng, thẩm quyền của chính quyền đô thị ở các đô thị khác nhau (cấp của đô thị và loại đô thị) sẽ có những nội dung khác nhau.
e) Đề nghị bổ sung một điều khoản trong chương chính quyền địa phương quy định về nguyên tắc phân cấp thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương. Bởi vì, mọi sự phân định thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền trong mọi trường hợp đều không mang tính tuyệt đối, nên việc xác định nguyên tắc này có thể thực hiện theo cách thức: nhóm các vấn đề thuộc thẩm quyền đặc biệt của Trung ương, nhóm các vấn đề thuộc thẩm quyền độc lập của địa phương (trong đó có chính quyền đô thị) và nhóm các vấn đề thuộc thẩm quyền chung cần có sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương khi thực hiện.
g) Bổ sung vào Điều 75 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định về thẩm quyền của Quốc hội được ban hành Luật, Nghị quyết cho phép chính quyền các đô thị đặc biệt, chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thực hiện thí điểm những chủ trương, chính sách mới hoặc để giải quyết những vấn đề đặc thù của địa phương trong điều kiện Hiến pháp hoặc các đạo luật chưa có quy định.
h) Trong mô hình chính quyền đô thị sẽ có cấp chính quyền hoàn chỉnh và cấp chính quyền không hoàn chỉnh. Cấp chính quyền không hoàn chỉnh sẽ không có Hội đồng nhân dân cùng cấp. Do vậy, để đảm bảo sự giám sát đối với những địa bàn không tổ chức Hội đồng nhân dân, cần thiết phải tăng cường số lượng, chất lượng cũng như chế độ làm việc cho đại biểu Hội đồng nhân dân của cấp chính quyền hoàn chỉnh. Theo đó, đề nghị bổ sung vào Điều 117 của Dự thảo nội dung sau đây: Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp do luật định. Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động theo chế độ chuyên trách ít nhất bằng một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân.
k) Kiến nghị sửa đổi, bổ sung vào Khoản 2 Điều 116 Dự thảo theo hướng:
- Ủy ban hành chính nơi có tổ chức Hội đồng nhân dân sẽ do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
- Ủy ban hành chính nơi không có tổ chức Hội đồng nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên.
- Tăng thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu Ủy ban hành chính trong việc lãnh đạo, điều hành hoạt động của Ủy ban hành chính, có thẩm quyền quyết định tất cả những vấn đề thuộc thẩm quyền của Ủy ban hành chính, trừ những vấn đề thực sự quan trọng do tập thể Ủy ban hành chính quyết định theo luật định.
7. Chương XI: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước.
Qua tổng hợp nhận thấy có 03 nhóm ý kiến:
- Nhóm ý kiến thứ 1:
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định bổ sung “Hội đồng Hiến pháp” là bổ sung một cơ chế mới với một thiết chế mới trong hoạt động lập pháp trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra về vị trí, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này chưa được xác định cụ thể. Thực tiễn, vấn đề bảo vệ Hiến pháp từ trước đến nay đang phát huy hiệu quả, cơ chế bảo vệ rõ ràng. Do vậy, đề nghị bỏ quy định về Hội đồng hiến pháp ở Điều 120 của Chương X nhằm tránh xung đột pháp lý với quyền hạn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định tại khoản 2, 3, 4, 6 của Điều 79 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Nhóm ý kiến thứ 2:
Để làm rõ hơn chủ quyền nhân dân, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc bổ sung vào Dự thảo thiết chế Hội đồng Hiến pháp là điều cần thiết. Tuy nhiên qua thảo luận, góp ý, nhiều ý kiến cho rằng thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp là kiểm tra, đề nghị xử lý các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành không phù hợp Hiến pháp, chưa đảm bảo một thiết chế độc lập có thẩm quyền xử lý đối với các văn bản không phù hợp Hiến pháp.
Do đó đề nghị quy định Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ, hủy bỏ các văn bản do Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành không phù hợp Hiến pháp. Đối với văn bản của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì thống nhất như Dự thảo.
- Nhóm ý kiến thứ 3:
Thống nhất với Điều 120 của Dự thảo vì qui định như vậy là phù hợp.
V. NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC:
Triển khai thực hiện Công văn số 250/UBDTSĐHP ngày 06 tháng 03 năm 2013 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về tiếp tục triển khai Nghị quyết của Quốc hội lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục tập trung thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến và tiếp nhận ý kiến của nhân dân đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 sau ngày 31 tháng 03 năm 2013 cho đến thời điểm 30 tháng 04 năm 2013 và cho đến ngày 30 tháng 9 năm 2013 trước khi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được trình Quốc hội thông qua.
Thành phố tiếp tục tiếp nhận, tập họp, tổng hợp đầy đủ các ý kiến góp ý của nhân dân thành phố cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trong đó tập trung lấy ý kiến tại các hộ dân, công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất,…để báo cáo đầy đủ, kịp thời cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 xem xét, nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội.
Trên đây là báo cáo tổng hợp kết quả tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992 (đợt 1) của Ban chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
(Đính kèm Bảng tập họp, tổng hợp ý kiến nhân dân thành phố về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 – đợt 1)./.
Nơi nhận: | TM. BAN CHỈ ĐẠO |
- UBDTSĐHP năm 1992; - VP Chính phủ; - TT/Thành ủy; - TT/HĐNDTP; - TT/UBNDTP; - Các TV BCĐ; - CPVP Đoàn ĐBQH&HĐNDTP; - Lưu VT, (P.CTHĐ-Ng). | KT. TRƯỞNG BAN PHÓ TRƯỞNG BAN THƯỜNG TRỰC (đã ký) PHÓ CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TP Trương Thị Ánh |
Đính kèm file chi tiết