Thực hiện Kế hoạch giám sát số 04/KH-ĐĐBQH ngày 15 tháng 9 năm 2021, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố đã đề nghị Liên đoàn Lao động Thành phố Hố, Liên đoàn Lao động Thành phố Thủ Đức, Liên đoàn Lao động các quận: 12, Gò Vấp, Bình Tân; các tổ chức Công đoàn ngành Thành phố (Giáo dục, Dệt may, Các Khu chế xuất và công nghiệp, Công đoàn viên chức) và các doanh nghiệp (Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn, Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn, Liên minh Hợp tác xã Thương mại Thành phố, Tổng Công ty Cơ khí Giao thông vận tải Sài Gòn, Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn, Công ty Dệt may Gia Định) báo cáo bằng văn bản; đồng thời tổ chức Đoàn giám sát làm việc trực tiếp với Liên đoàn Lao động Thành phố, Công đoàn Viên chức Thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức, Liên đoàn Lao động thành phố Thủ Đức; Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn – TNHH MTV, Công ty Cổ phần Dệt may Gia Định để giám sát về tình hình thực hiện Luật Công đoàn năm 2012 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ 01/01/2018 – 30/6/2021.
Dưới đây là báo cáo kết quả giám sát:
I. VIỆC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT CÔNG ĐOÀN NĂM 2012:
1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt thực hiện Luật Công đoàn năm 2012:
Sau khi Luật Công đoàn 2012 được ban hành, được sự chỉ đạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về triển khai Luật Công đoàn 2012, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động thành phố đã xây dựng kế hoạch và tổ chức Hội nghị triển khai thực hiện, quán triệt trong cán bộ chủ chốt các công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, Công đoàn cơ sở trực thuộc, các Công đoàn ngành, Tổng công ty đồng thời chỉ đạo các Ban chuyên đề Liên đoàn Lao động Thành phố phối hợp tổ chức các lớp tuyên truyền, biên soạn tờ rơi, sổ tay Luật Công đoàn 2012 quán triệt đến cán bộ công chức, viên chức, đoàn viên và người lao động trên địa bàn thành phố về quan điểm, chủ trương của Đảng và những điểm mới của Luật Công đoàn năm 2012. Thông qua công tác tuyên truyền Luật Công đoàn 2012, tạo điều kiện cho cán bộ, đoàn viên, công nhân viên chức, người lao động hiểu rõ quy định của pháp luật Công đoàn, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người đoàn viên, từng bước đưa Luật đi vào cuộc sống.
2. Hoạt động quán triệt Luật Công đoàn năm 2012 cho cán bộ, đoàn viên, công nhân viên chức, người lao động; tuyên truyền, phổ biến Luật Công đoàn năm 2012:
Hằng năm Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động Thành phố chỉ đạo các Ban chuyên đề; công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, công đoàn cơ sở phối hợp với cơ quan chuyên môn đồng cấp tổ chức triển khai Luật Công đoàn năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Công đoàn. Xác định nhiệm vụ trọng tâm về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và Luật Công đoàn đến các công đoàn cơ sở, đoàn viên, người lao động với các hình thức đa dạng, phong phú như: tổ chức hội nghị, lồng ghép với các buổi tuyên truyền, Hội thi tìm hiểu Luật Công đoàn, phổ biến giáo dục pháp luật, in tờ rơi, sổ tay... Việc đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền giúp cán bộ đoàn viên, người lao động cập nhật, bổ sung các thông tin, kiến thức pháp luật, chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Thông qua công tác tuyên truyền Luật Công đoàn 2012, tạo điều kiện cho cán bộ, đoàn viên, công nhân viên chức, người lao động hiểu rõ quy định của pháp luật Công đoàn, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người đoàn viên, từng bước đưa Luật đi vào cuộc sống.
Trong giai đoạn từ 01/01/2018 - 30/6/2021, các cấp Công đoàn đã phối hợp với chuyên môn đồng cấp tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật Công đoàn 2012 dưới nhiều hình thức; tích cực tham gia xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến người lao động và tổ chức Công đoàn, góp ý vào các dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm Xã hội…, hình thức lấy ý kiến đa dạng, phong phú phù hợp với điều kiện của cán bộ công đoàn; tham gia thương lượng, đề xuất điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động.
II. TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CÔNG ĐOÀN GIAI ĐOẠN TỪ 01/01/2018 – 30/6/2021
1. Về địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam
Theo Điều 10 của Hiến pháp năm 1992 được bổ sung, sửa đổi năm 2013 và tại Điều 1 của Luật Công đoàn 2012 “Công đoàn Việt Nam… là của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội…” đã khẳng định địa vị pháp lý cũng như vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn Việt Nam; khẳng định tính khách quan về sự tồn tại và địa vị của tổ chức Công đoàn trong quan hệ kinh tế - chính trị, xã hội của đất nước, vai trò đại diện của tổ chức Công đoàn trong quan hệ lao động là phù hợp sự phát triển qua các giai đoạn lịch sử với tính quy luật phát triển của phương thức sản xuất, sự nghiệp xây dựng nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đã tạo cho giai cấp công nhân, những người lao động trong các thành phần kinh tế có những cơ hội đóng góp cho sự phát triển của đất nước và cần thiết phải có tổ chức đại diện cho giai cấp công nhân trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, góp phần vào sự phát triển của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp góp phần rất lớn và quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương và bảo vệ tổ quốc.
2. Việc xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp công tác
- Công tác xây dựng Quy chế phối hợp giữa tổ chức Công đoàn với chính quyền, chuyên môn đồng cấp luôn được Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động Thành phố quan tâm thực hiện và thường xuyên giữ mối quan hệ, phối hợp chặt chẽ để tổ chức triển khai có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến về các chủ trương, đường lối của Đảng, chế độ chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của các cấp chính quyền đến đoàn viên, người lao động; phát động các phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị, phong trào thi đua lao động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, kế hoạch sản xuất - kinh doanh của đội ngũ đoàn viên công đoàn, công nhân viên chức, người lao động.
Trong giai đoạn từ 01/01/2018 đến 30/6/2021, Liên đoàn Lao động Thành phố đã xây dựng và ký kết các kế hoạch, chương trình phối hợp với Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật Thành phố, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, cơ quan Bảo hiểm xã hội, Tòa án nhân dân Thành phố về việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật; thực hiện quyền lợi, chế độ chính sách cho người lao động trên địa bàn thành phố Thủ Đức và các quận, huyện; tham gia kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật, thực hiện cơ chế, chủ trương, chính sách có liên quan trực tiếp quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; giám sát doanh nghiệp thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại nơi làm việc.
Các cấp công đoàn Thành phố đã chủ động trong tham gia xây dựng và triển khai thực hiện Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Ủy ban nhân dân quận, huyện với Liên đoàn Lao động quận, huyện. Định kỳ hàng năm đánh giá kết quả thực hiện và rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế cho phù hợp với tình hình thực tiễn của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn của địa phương.
Thông qua Quy chế phối hợp, đã phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc tham gia với cơ quan Nhà nước trong kiểm tra, giám sát thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng liên quan của đoàn viên, công nhân viên chức, người lao động; giải quyết kịp thời tranh chấp lao động, đình công tự phát, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích, hợp pháp, chính đáng của người lao động về việc làm, đời sống, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; người sử dụng lao động từng bước tuân thủ và thực hiện tốt hơn các quy định pháp luật lao động, quan tâm thực hiện tốt các chế độ chính sách cho người lao động và quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện cho Công đoàn cơ sở hoạt động; lãnh đạo cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp quan tâm thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, tập trung nâng cao chất lượng hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, hội nghị người lao động, đối thoại định kỳ và thương lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể; phối hợp hỗ trợ chăm lo cho đoàn viên, công nhân viên chức người lao động có hoàn cảnh khó khăn.
Điều 20, Luật Công đoàn 2012 xác định: “Quan hệ giữa Công đoàn với Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp là quan hệ hợp tác, phối hợp để thực hiện chức năng, quyền, trách nhiệm của các bên theo quy định của pháp luật, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ”. Thực hiện nội dung này, về cơ bản các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đã hợp tác, phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả với công đoàn để thực hiện tốt chức năng, quyền, trách nhiệm của các bên theo quy định.
3. Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn
Trên cơ sở quy định của Luật Công đoàn 2012 về quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, giai đoạn từ 01/01/2018 – 30/6/2021, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động tiếp tục phát triển về số lượng; chất lượng cơ bản được nâng lên và có nhiều đóng góp trực tiếp, to lớn vào sự phát triển của đất nước. Các cấp công đoàn đã tập trung phát triển đoàn viên với nhiều giải pháp đa dạng và đạt kết quả quan trọng. Trong giai đoạn 01/01/2018 đến 30/9/2021, Liên đoàn Lao động Thành phố thành lập 5.597 công đoàn cơ sở, kết nạp 445.384 đoàn viên công đoàn (trong đó khu vực ngoài nhà nước thành lập 5.462 công đoàn cơ sở kết nạp 409.943 đoàn viên công đoàn). Hiện nay, Liên đoàn Lao động Thành phố đang quản lý 20.039 công đoàn cơ sở, với 1.355.014 đoàn viên/1.532.355 lao động; Trong đó khu vực ngoài nhà nước 17.113 công đoàn cơ sở, với 1.078.388 đoàn viên/1.249.198 lao động.
4. Về các hành vi bị nghiêm cấm
Theo Liên đoàn Lao động Thành phố, khoản 2, Điều 170 của Bộ luật Lao động 2019 quy định “Người lao động trong doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp…”, với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động nhưng với quy định như vậy thì địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam không còn được đề cao, trong khi tổ chức Công đoàn đã có bề dầy hơn 90 năm hình thành, phát triển có những đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam, góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với công nhân, người lao động và giữa người sử dụng lao động với người lao động, tích cực tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp, chứng tỏ tổ chức Công đoàn đã phát huy vai trò, có tác dụng và ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống chính trị - xã hội, với quy định như trong Bộ luật Lao động 2019 trong giai đoạn hiện nay là chưa phù hợp vì vai trò của tổ chức đại diện người lao động chưa thể hiện rõ nhiệm vụ của mình khi mà tổ chức này hình thành song song với tổ chức Công đoàn.
Tại Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 quy định các trường hợp người sử dụng lao động có hành vi vi phạm các quy định về thực hiện quyền công đoàn thì bị xử phạt vi phạm hành chính như Điều 34 “Vi phạm quy định về đảm bảo thực hiện quyền công đoàn”, Điều 35 “Vi phạm quy định về phân biệt đối xử vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn”, Điều 36 “Vi phạm quy định về sử dụng các biện pháp kinh tế hoặc các biện pháp khác gây bất lợi đối với tổ chức và hoạt động công đoàn”, Điều 37 “Vi phạm quy định về đóng kinh phí công đoàn” đều có chế tài bằng mức xử phạt tiền và buộc biện pháp khắc phục hậu quả, nhưng trong thời gian qua việc áp dụng Nghị định này chưa đạt hiệu quả đối với các đơn vị nợ đọng, hiện chưa có quyết định xử lý vi phạm hành chính về nội dung trên.
5. Hệ thống tổ chức, bộ máy và cán bộ công đoàn
Tổ chức, bộ máy của cơ quan Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo Quy định số 282-QĐ/TW ngày 01 tháng 4 năm 2015 của Ban Bí thư. Hiện Liên đoàn Lao động Thành phố có 07 Ban chuyên đề, 19 đơn vị trực thuộc và 341 công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, tổng số cán bộ 417 người.
Đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ ở Liên đoàn Lao động thành phố đã cơ bản được thực hiện theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Công đoàn Việt Nam. Những năm qua, một số cấp ủy địa phương đã phối hợp với Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh lựa chọn, đào tạo, bố trí được đội ngũ cán bộ công đoàn chủ chốt cấp tỉnh có chất lượng; đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ chính trị. Nhiều cán bộ công đoàn có năng lực, phẩm chất, uy tín được đề bạt, bổ nhiệm, được giới thiệu để ứng cử các vị trí lãnh đạo, quản lý của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.
Đội ngũ cán bộ công đoàn chuyên trách của cơ quan Liên đoàn Lao động Thành phố được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó được tuyển dụng theo Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, tiếp nhận từ các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, một bộ phận cán bộ công đoàn được bổ sung từ công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; nhìn chung đảm bảo về điều kiện, tiêu chuẩn, trong đó phần lớn có trình độ đại học trở lên, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
6. Về nguyên tắc tổ chức và công tác cán bộ
Điều 6, Luật Công đoàn 2012 quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn đã tuân thủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản và phù hợp với thực tiễn của thể chế chính trị - xã hội của Việt Nam. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn đã tạo điều kiện để tổ chức Công đoàn phát huy dân chủ, huy động sức mạnh tập thể, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ trong thời gian qua. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện cho thấy việc quản lý, phân bổ, bố trí biên chế cán bộ công đoàn theo các quy định hiện nay của Đảng và các quy định pháp luật đã bộc lộ một số điểm chưa phù hợp, cụ thể:
Thứ nhất, cơ chế cấp ủy địa phương giao biên chế cho tổ chức Công đoàn địa phương trong gói biên chế được cấp trên giao cho khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội dẫn đến sự không đồng bộ về biên chế trong cùng một cấp công đoàn. Ví dụ, hai địa phương có điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội giống nhau nhưng do hai cấp ủy khác nhau quyết định giao biên chế nên số lượng biên chế cán bộ công đoàn của hai địa phương có thể khác nhau.
Thứ hai, thực tế hiện nay, ngoài số lượng cán bộ công đoàn đang làm việc trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp được xác định là công chức theo Luật Cán bộ công chức… thì có một số lượng không nhỏ cán bộ công đoàn đang làm việc chuyên trách trong các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Các đối tượng này hiện nay chưa được định danh rõ ràng nên việc tuyển dụng, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ có nhiều khó khăn, vướng mắc. Trường hợp xác định cán bộ công đoàn chuyên trách trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập là công chức như những cán bộ công đoàn làm việc trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp thì rất khó khăn vì các quy định về quản lý biên chế, quản lý cán bộ theo pháp luật về cán bộ công chức hết sức chặt chẽ trong khi môi trường doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập hết sức năng động, linh hoạt và ngày càng tăng thêm theo sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước.
7. Về quyền của tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở
Điều 17 Luật Công đoàn 2012 quy định về quyền, trách nhiệm của công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đối với người lao động ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, như sau: “Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu”.
Quy định này tương thích với khoản 3, Điều 188 Bộ luật Lao động 2012 về vai trò của tổ chức công đoàn trong quan hệ lao động: “Ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện trách nhiệm như quy định tại khoản 1 Điều này”.
Ở những nơi chưa có tổ chức công đoàn cơ sở hoặc có công đoàn cơ sở nhưng chưa mạnh, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở (đặc biệt là công đoàn khu công nghiệp, khu chế xuất) đã thực hiện: (1) Đại diện cho tập thể người lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động bị xâm phạm (khi được ủy quyền); (2) Đại diện người lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động ủy quyền; (3) Hỗ trợ bảo vệ quyền lợi người lao động tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động yêu cầu; (4) Tham gia tố tụng trong vụ án lao động, hành chính, phá sản doanh nghiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động và người lao động.
Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, Công đoàn Việt Nam tiếp tục thực hiện quyền đại diện, chăm lo, bảo vệ cho người lao động nói chung theo Điều 10 Hiến pháp phù hợp với điều kiện, bối cảnh mới. Do vậy, việc công đoàn cấp trên có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ người lao động ở những nơi chưa thành lập được công đoàn cơ sở cần được tiếp tục nghiên cứu, xem xét song cần nhấn mạnh việc công đoàn cấp trên có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi “được người lao động ở đó yêu cầu”.
8. Quyền đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động
Thực hiện quyền đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động theo Điều 10 của Luật Công đoàn 2012, công đoàn các cấp đã triển khai các hoạt động về quyền của tổ chức Công đoàn hướng về đoàn viên, người lao động ngày một hiệu quả, thực sự là chỗ dựa đáng tin cậy của đoàn viên, người lao động. Trong những năm qua, Liên đoàn Lao động Thành phố đề ra nhiều giải pháp mang lại hiệu quả thiết thực của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn; nâng cao hiệu quả việc thực hiện các nhiệm vụ đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, cụ thể như:
- Hằng năm, tập trung chỉ đạo, hướng dẫn các cấp Công đoàn phối hợp với lãnh đạo cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở về tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, tổ chức Hội nghị người lao động và đối thoại định kỳ. Kết quả có 100 % cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức; các loại hình doanh nghiệp tổ chức đối thoại tại nơi làm việc đạt 71,63%, công đoàn cơ sở phối hợp tổ chức Hội nghị người lao động đạt 65,27%. Thông qua đối thoại, nhiều vấn đề vướng mắc, bức xúc của người lao động được giải quyết kịp thời; nhiều khó khăn của doanh nghiệp được người lao động chia sẻ; vai trò của tổ chức công đoàn được thể hiện rõ nét hơn. Qua đó góp phần khẳng định vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động.
- Triển khai tổ chức các phong trào thi đua như: Phong trào: “Mùa xuân”, “Bàn tay vàng”, “Vì người thợ”; phong trào “Lao động giỏi, Lao động sáng tạo”, phong trào “Ôn lý thuyết, luyện thi tay nghề, thi thợ giỏi”, phong trào “Xanh - sạch - đẹp, đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động” với mục tiêu tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động; tổ chức “Tháng hành động về An toàn vệ sinh lao động” và “Tháng hành động về an toàn, vệ sinh lao động” hàng năm.
- Hướng dẫn Công đoàn cơ sở tham mưu, đề xuất chủ doanh nghiệp ký kết mới, ký kết lại thỏa ước lao động tập thể đã hết hạn và điều chỉnh, bổ sung những nội dung mới có lợi hơn cho người lao động so với quy định pháp luật. Tính đến tháng 9/2021, Có 7.271/17.614 công đoàn cơ sở thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể thỏa ước lao động tập thể 51%. Liên đoàn Lao động Thành phố đã scan vào Thư viện Thỏa ước lao động tập thể của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam 7.692 thỏa ước lao động tập thể. Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở đã tham gia với người sử dụng lao động xây dựng và giám sát việc thực hiện thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động; định kỳ tổ chức đối thoại với người sử dụng lao động để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động.
Việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể được các cấp công đoàn chú trọng thực hiện, chất lượng thỏa ước ngày càng được nâng lên, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động. Việc triển khai thí điểm thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể ở những doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn, bước đầu đã đạt được kết quả đáng khích lệ, trong nửa nhiệm kỳ qua đã có 176 doanh nghiệp ký thỏa ước lao động tập thể với Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở và đây là một trong những cách làm mới, làm cơ sở cho công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn; thí điểm ký kết thỏa ước nhóm trong các doanh nghiệp dệt may theo hướng dẫn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng được triển khai thực hiện.
- Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức pháp luật và phương pháp hoạt động công đoàn với các nội dung mới liên quan đến pháp luật lao động và tổ chức Công đoàn như: thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; hoạt động Ban Thanh tra nhân dân; tổ chức đối thoại tại nơi làm việc; thương lượng, ký kết TƯLĐTT và quy trình, kỹ năng giải quyết tranh chấp lao động… (tổ chức 1.524 lớp hơn 147.699 lượt cán bộ công đoàn tham gia).
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm Tư vấn pháp luật, củng cố 28 tổ tư vấn pháp luật thuộc công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, thành lập và ra mắt câu lạc bộ tư vấn pháp luật thành phố với 20 thành viên là cán bộ tư vấn của các quận, huyện, ngành, sở, khối, tổng công ty, cán bộ công đoàn đã qua lớp đào tạo nghiệp vụ luật sư cán bộ công đoàn, qua đó từng bước xây dựng cơ chế liên kết hoạt động giữa tư vấn pháp luật và Ủy ban kiểm tra công đoàn để nâng cao hiệu quả công tác tư vấn và tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động. Trung tâm tư vấn Pháp luật Công đoàn Thành phố và các tổ tư vấn pháp luật tại các Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đã tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho 17.137 lượt người lao động, trong đó nổi bật là các vấn đề liên quan đến giao kết hợp đồng lao động, kỷ luật lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Hoạt động tư vấn, giải đáp, trợ giúp pháp lý được tổ chức bằng nhiều hình thức như tư vấn trực tiếp, tư vấn qua điện thoại, qua trang Thông tin điện tử Công đoàn Thành phố, qua chương trình “Phát thanh công nhân”...
- Công tác nắm thông tin, dự báo tình hình, diễn biến tranh chấp lao động được Liên đoàn Lao động Thành phố chỉ đạo các cấp công đoàn quan tâm thực hiện kịp thời, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng giải quyết các tranh chấp lao động phát sinh. Trong đó, Công đoàn đã tập trung phối hợp giải quyết nhiều vụ ngừng việc tập thể có quy mô lớn, phức tạp, sớm ổn định tình hình quan hệ lao động, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, Liên đoàn Lao động Thành phố thực hiện công trình “Khảo sát điều tra đánh giá các khu nhà trọ, khu lưu trú cho công nhân lao động trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng sống tại các khu nhà trọ dành cho công nhân thành phố”, đó chính là cơ sở để các cấp công đoàn triển khai các hoạt động đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của đoàn viên, người lao động trong thời gian tới.
Trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19 toàn bộ hệ thống các cấp công đoàn trực thuộc đã nghiêm túc thực hiện Chi thị số 16/CT-TTg về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng chống dịch và chỉ thị số 19/CT-TTg về tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới của thủ tướng chính phủ thông qua quán triệt trong cơ quan, đơn vị và người thân gia đình công chức, viên chức, lao động thực hiện nghiêm túc theo tinh thần “5K”. Tăng cường công tác tuyên truyền đến cán bộ, công chức, viên chức các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong thời gian từ Tết Nguyên đán đến nay với nhiều hình thức chuyển tải thông tin, hình ảnh, áp phích của Chính phủ, Bộ Y tế, Thành ủy Thành phố, Ủy ban Nhân dân Thành phố Liên đoàn Lao động Thành phố đến cán bộ công đoàn các cấp trực thuộc thông qua các nền tảng mạng xã hội để Ban Chấp hành công đoàn cơ sở triển khai cho đoàn viên công đoàn thực hiện. Ngoài ra các công đoàn cơ sở trực thuộc tổ chức đẩy mạnh công tác phòng chống dịch và chăm lo trong công chức, viên chức - người lao động với nhiều hình thức: trang bị khẩu trang cho công chức, viên chức - người lao động; xịt khử khuẩn tại nơi làm việc; trang bị dung dịch rửa tay; máy đo thân nhiệt; thực hiện kê khai y tế, buồng khử khuẩn, chăm lo hỗ trợ người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19.
9. Quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội
Quyền tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội của tổ chức công đoàn được quy định cụ thể tại Điều 11 Luật Công đoàn. Về cơ bản quyền tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội của tổ chức công đoàn được các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, người sử dụng lao động tôn trọng và được thực hiện ở các cấp công đoàn. Nội dung, hình thức tham gia chủ yếu được thực hiện thông qua việc tham gia xây dựng chính sách pháp luật, nội quy, quy chế, các chương trình, kế hoạch, chỉ tiêu phát triển sản xuất, kinh doanh tại cơ quan, doanh nghiệp; công đoàn tham gia trong việc tổ chức, cải tiến lề lối làm việc và thủ tục hành chính nhằn nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, cải thiện điều kiện làm việc, xây dựng môi trường làm việc thân thiện. Tham gia các hội đồng có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của đoàn viên, người lao động…Qua đánh giá của các cấp công đoàn, về cơ bản, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội của tổ chức công đoàn theo quy định của Luật Công đoàn hiện hành là phù hợp.
10. Quyền tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
Thực hiện vai trò, chức năng của tổ chức Công đoàn trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động, trong những năm qua, Liên đoàn Lao động Thành phố và các công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở phối hợp tốt với các ngành chức năng của Thành phố thanh tra, kiểm tra 8.035 cuộc giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, Công đoàn, các chế độ, chính sách đối với người lao động tại doanh nghiệp, trọng tâm là các vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; qua đó kiến nghị, đề xuất cơ quan chức năng, người sử dụng lao động giải quyết quyền lợi, chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật; tuyên truyền, tư vấn pháp luật để người lao động có thể cùng với tổ chức công đoàn cơ sở tham gia kiểm tra, giám sát tại doanh nghiệp, góp phần đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Qua công tác phối hợp thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động Công đoàn, tình hình chấp hành quy định của pháp luật tại doanh nghiệp đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên, vẫn còn một số doanh nghiệp chưa thực hiện tốt các quy định của pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nợ lương, nợ bảo hiểm xã hội,...
Đối với hoạt động Ủy ban kiểm tra, công đoàn các cấp thông qua hoạt động của Ủy ban kiểm tra đã tiến hành 34.029 cuộc kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Công đoàn đồng cấp và cấp dưới[7]; 33.512 cuộc kiểm tra về việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công đoàn.
Tập trung giám sát chuyên đề về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ công đoàn cấp trên cơ sở đối với việc tổ chức và hoạt động nhà văn hóa lao động thuộc hệ thống Công đoàn Thành phố tại 06 đơn vị công đoàn cấp trên cơ sở [9]; giám sát chuyên đề tại cơ quan Liên đoàn Lao động Thành phố về công đầu tư, xây dựng cơ bản; giám sát các công đoàn cấp trên cơ sở về việc thực hiện chương trình “Phúc lợi đoàn viên” nhất là công tác chăm lo và thực hiện các chính sách hỗ trợ đoàn viên, người lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Tham gia cùng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố thực hiện giám sát tại 17 đơn vị quận huyện, phường xã[10]; tham gia cùng đoàn liên ngành do Bộ Y tế chủ trì thực hiện giám sát tại 02 đơn vị cơ sở về công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19[11].
Công tác giải quyết và tham gia giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo tiếp tục được Ban Chấp hành công đoàn các cấp quan tâm chỉ đạo thực hiện. Thông qua việc các cấp công đoàn ban hành nội quy tiếp đoàn viên công đoàn, người lao động, mở sổ theo dõi giải quyết khiếu nại, tố cáo và tư vấn pháp luật miễn phí, từ đó đã hạn chế được đơn thư vượt cấp và tồn đọng kéo dài, góp phần chung vào việc thực hiện nhiệm vụ đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động.
Việc thực hiện quyền tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát đã tích cực góp phần thực hiện tốt công tác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động, các cấp Công đoàn đã nắm chắc hơn tình hình thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước; quy chế dân chủ cơ sở, nắm thực tế đời sống, lao động, việc làm; việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động, từ đó kịp thời kiến nghị, hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị sử dụng lao động có biện pháp thực hiện ngày càng tốt hơn các quy định của Nhà nước. Việc thực hiện quyền tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát đã góp phần nâng cao chất lượng thực thi các quy pháp luật của doanh nghiệp, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.
Về cơ bản, quyền tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp theo quy định của Luật Công đoàn 2012 là phù hợp. Tuy nhiên, cần nghiên cứu, xem xét để quy định trong Luật Công đoàn các quy định chi tiết về quyền độc lập giám sát của Công đoàn đối với việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và của người lao động để phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng.
11. Việc thực hiện trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với công đoàn
Việc thực hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với Công đoàn được quy định tại Điều 21 Luật Công đoàn 2012 đã bảo đảm, hỗ trợ, tạo điều kiện cho Công đoàn thực hiện chức năng, quyền, trách nhiệm theo quy định của pháp luật trong tham gia phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của từng địa phương, từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; đại diện chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức doanh nghiệp đối với Công đoàn được quy định tại Điều 22 Luật Công đoàn 2012. Thực tế cho thấy, công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của cơ quan, đơn vị cũng như kế hoạch sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện rất tốt việc thực hiện chức năng, quyền, nghĩa vụ của các bên, luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để tổ chức Công đoàn cơ sở hoạt động mang lại hiệu quả và đảm bảo những quyền lợi thiết thực cho đoàn viên, người lao động của đơn vị. Qua đó, các nội dung và quy định của pháp luật hiện hành là phù hợp, thông qua hoạt động tổ chức Công đoàn đã góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, bền vững; đối với cơ quan, tổ chức thì Công đoàn là một chủ thể tham gia bình đẳng trong việc hoạch định các chế độ, chính sách liên quan đến công nhân, viên chức, người lao động.
12. Những bảo đảm hoạt động của công đoàn
Những quy định về bảo đảm hoạt động của công đoàn được quy định tại Chương IV Luật Công đoàn 2012 theo đánh giá của Liên đoàn Lao động Thành phố và các đơn vị đã được quy định đầy đủ và phù hợp với thực tiễn hoạt động của tổ chức Công đoàn như: xác định có tính nguyên tắc việc bảo đảm về tổ chức và số lượng cán bộ, công chức để thực hiện chức năng, quyền và trách nhiệm của công đoàn; quy định về thời gian tối thiểu cho hoạt động công đoàn đối với cán bộ công đoàn không chuyên trách tại cơ sở; quy định về quyền lợi của cán bộ công đoàn không chuyên trách do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trả lương, được hưởng phụ cấp hoạt động công đoàn; quy định bảo vệ cán bộ công đoàn về việc làm; quy định nguyên tắc quản lý tài chính Công đoàn, vừa theo pháp luật, vừa bảo đảm tính độc lập của công đoàn.
Về bảo đảm điều kiện hoạt động cho công đoàn, trong đó bảo đảm thời gian cho cán bộ công đoàn không chuyên trách theo Luật Công đoàn 2012 đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ công đoàn thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn trong thời gian qua.
Về việc trích nộp kinh phí Công đoàn của các doanh nghiệp, các đơn vị đề nghị cần được bổ sung thêm vào trong Bộ luật Lao động, nhằm khẳng định tính nhất quán về vai trò và vị trí của Công đoàn trong thể chế chính trị của xã hội Việt Nam, để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho tổ chức Công đoàn hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đối với tổ chức và hoạt động của Công đoàn, nhất là vấn đề đảm bảo kinh phí cho Công đoàn hoạt động.
Tuy nhiên, Bộ luật Lao động 2019 (Điều 176) quy định về bảo đảm thời gian cho thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đã có sự thay đổi. Theo đó “thời gian tối thiểu mà người sử dụng lao động dành cho toàn bộ thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở để thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đại diện trên cơ sở số lượng thành viên của tổ chức” sẽ do Chính phủ quy định. Do đó cần nghiên cứu để sửa đổi quy định của Luật Công đoàn 2012 về vấn đề này, đảm bảo tính tương thích, đồng bộ với Bộ luật Lao động 2019.
13. Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn
13.1. Việc giải quyết tranh chấp:
Theo quy định nơi có tổ chức Công đoàn cơ sở khi có xảy ra tranh chấp lao động cá nhân hoặc tập thể thì Ban Chấp hành công đoàn cơ sở phải kịp thời phối hợp với người sử dụng lao động giải quyết các kiến nghị hợp pháp, chính đáng của người lao động, trường hợp không giải quyết được thì kiến nghị với tổ chức, cơ quan nhà Nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động hoặc của người lao động bị xâm phạm và tham gia với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động. Còn ở những nơi chưa có tổ chức Công đoàn cơ sở khi có tranh chấp lao động xảy ra do tổ chức Công đoàn cấp trên kết hợp với cơ quan nhà Nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Chương V Luật Công đoàn 2012 quy định về “Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật công đoàn”, quy định 2 nội dung này liên quan đến việc xác định nguyên tắc giải quyết tranh chấp về quyền công đoàn, xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn, thực hiện chức năng quản lý nhà Nước thông qua việc ban hành văn bản pháp luật quy định chi tiết việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật về công đoàn, hiện nay là tương đối phù hợp.
13.2. Việc xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn:
Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ quy định xử lý vi phạm pháp luật quyền công đoàn về đảm bảo thực hiện…; về phân biệt đối xử…; về sử dụng các biện pháp kinh tế hoặc các biện pháp khác gây bất lợi…; về đóng kinh phí công đoàn, từ Điều 34 đến Điều 37 đã có quy định những biện pháp xử lý, mức phạt tiền các hành vi vi phạm về và các biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc áp dụng văn bản pháp luật về các điều khoản này chưa triệt để theo quy định do việc đề xuất cho Ủy ban nhân dân các cấp ra Quyết định xử phạt vi phạm hành vi hành chính thuộc thẩm quyền của Trưởng đoàn kiểm tra Liên ngành, công đoàn chỉ tham gia kiến nghị trong biên bản thanh tra, kiểm tra, giám sát chứ không được trực tiếp trình đề xuất xử lý nên việc áp dụng chưa phù hợp cần có điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn.
14. Về tài chính công đoàn
Căn cứ Luật Công đoàn năm 2012 và Nghị định 191/2013/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực, Tổng Liên đoàn đã ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định, hướng dẫn để các cấp Công đoàn thực hiện công tác tài chính theo quy định pháp luật hiện hành. Đến nay, các văn bản quy định cơ bản đã đồng bộ, tạo hành lang pháp lý cho công tác tài chính công đoàn từ đó giúp cho công tác tham mưu, công tác thu, chi, quản lý tài chính tài sản công đoàn đảm bảo hiệu quả. Các văn bản đã đảm bảo tính cập nhật kịp thời, phù hợp với các quy định của Nhà nước. Để thực hiện đồng bộ công tác tài chính công đoàn, đảm bảo hoạt động tài chính công đoàn hiệu quả, hiệu lực, Liên đoàn Lao động Thành phố xây dựng, ban hành Nghị quyết về công tác tài chính công đoàn trong tình hình mới. Đến nay, hệ thống văn bản về tài chính công đoàn đã cơ bản tạo hành lang pháp lý cho công tác thu tài chính công đoàn, phân cấp thu, phân phối nguồn tài chính cho các cấp công đoàn, các nội dung chi cho hoạt động công đoàn… Luật Công đoàn cũng đã nêu rõ 12 nội dung chi của tổ chức công đoàn, là kim chỉ nam trong đảm bảo hoạt động của tổ chức công đoàn, thực hiện sử dụng nguồn thu thiết thực hiệu quả.
Luật Công đoàn năm 2012, Nghị định số 191/2013/NĐ-CP của Chính phủ, các quy định về tài chính của tổ chức Công đoàn Việt Nam đã quy định rõ nguồn thu của công đoàn. Theo đó, đối tượng đóng kinh phí công đoàn 2% không phân biệt doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hay có vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đơn vị chưa có tổ chức công đoàn.
Trong thời gian qua, với cách thức thu – chi và phân bổ tài chính ngày càng khoa học, công khai, minh bạch, hướng về cơ sở, Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh đã có một nguồn lực cần thiết để đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn, thu hút ngày càng đông đảo người lao động tham gia công đoàn, góp phần quan trọng xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh.
Mặt khác, việc thu, chi, sử dụng kinh phí công đoàn như hiện nay chỉ phù hợp trong điều kiện Việt Nam có duy nhất một hệ thống công đoàn (Công đoàn Việt Nam). Bộ luật Lao động 2019 đã cho phép thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam. Theo đó, ở doanh nghiệp, bên cạnh công đoàn cơ sở thuộc hệ thống Công đoàn Việt Nam còn có thể có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp mà quyền và trách nhiệm của tổ chức này trong quan hệ lao động được đảm bảo bình đẳng với tổ chức công đoàn. Do đó, vấn đề chia sẻ nguồn kinh phí công đoàn với tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp cũng cần được xem xét, nghiên cứu trong lần sửa đổi Luật Công đoàn này.
Ngoài ra, thực tiễn thời gian qua cho thấy, cùng với chính sách giảm thuế và tạm dừng đóng quỹ bảo hiểm xã hội, vấn đề giảm mức đóng kinh phí công đoàn đối với doanh nghiệp gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19 đã được đặt ra nhằm hỗ trợ doanh nghiệp duy trì hoạt động trong bối cảnh dịch bệnh. Nhưng do Luật Công đoàn 2012 không quy định vấn đề này nên việc miễn, giảm kinh phí công đoàn không thể triển khai trong thực tiễn.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Qua giám sát, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố nhận thấy Liên đoàn lao động Thành phố và các cấp công đoàn đã tích cực, chủ động trong việc xây dựng, ban hành kế hoạch cụ thể để tuyên truyền, phổ biến và triển khai, thực hiện Luật Công đoàn 2012, qua đó đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức cũng như hành động của cán bộ công đoàn, đoàn viên và người lao động; xác định rõ trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện Luật Công đoàn ở mỗi cấp công đoàn phù hợp với điều kiện cụ thể của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, tư vấn pháp luật, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động ngày càng được nâng cao.
Việc triển khai Luật Công đoàn 2012 được các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chủ động thực hiện đúng quy định, từ đó tạo sự thuận lợi trong mối quan hệ công tác giữa công đoàn với chính quyền, chuyên môn đồng cấp để phối hợp thực hiện tốt chức năng, quyền, trách nhiệm của các bên theo quy định.
Trong đợt dịch bệnh Covid – 19 vừa qua, công đoàn các cấp đã quan tâm tích cực trong việc tuyên truyền, vận động công nhân viên chức, người lao động chấp hành các biện pháp phòng, chống dịch; tích cực quan tâm chăm lo hỗ trợ người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh
Nhìn chung, trong những năm qua việc triển khai thực hiện Luật Công đoàn 2012 trên địa bàn thành phố đạt kết quả tích cực, quyền và lợi ích của đoàn viên, công nhân viên chức lao động được đảm bảo, sự quan tâm phối hợp chỉ đạo của chính quyền, công tác phối hợp giữa tổ chức Công đoàn và chuyên môn đồng cấp phát huy hiệu quả trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động. Đa số các doanh nghiệp đều chấp hành nghiêm túc, đầy đủ các quy định của Luật công đoàn như ký kết thỏa ước lao động, tổ chức đổi thoại định kỳ, tổ chức nhiều hoạt động thi đua trong lao động sản xuất và các hoạt động chăm lo cho người lao động có hoàn cảnh khó khăn.
2. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn gặp những khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn chế như sau:
- Việc tuyên truyền, phổ biến Luật ở một số địa phương chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục và chủ yếu tập trung nhiều đối với cán bộ công đoàn, chưa chú trọng tuyên truyền sâu rộng trong công nhân lao động. Một bộ phận cán bộ, đoàn viên công đoàn hiểu và nhận thức về Luật Công đoàn còn hạn chế, cho rằng việc thực hiện Luật Công đoàn và các văn bản hướng dẫn thi hành là trách nhiệm, là việc của riêng tổ chức Công đoàn.
- Công tác phối hợp tuyên truyền, vận động các chủ doanh nghiệp thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có lúc chưa thường xuyên; một bộ phận doanh nghiệp chấp hành pháp luật chưa nghiêm, nhất là việc thực hiện đóng BHXH cho người lao động, đóng kinh phí công đoàn theo quy định tại Nghị định 191/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về tài chính Công đoàn.
- Một số cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp chưa quan tâm xây dựng Quy chế phối hợp giữa công đoàn với chính quyền và chủ doanh nghiệp trong việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ chính trị đơn vị cũng như kế hoạch sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp: không ký kết quy chế phối hợp; việc kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện quy chế phối hợp chưa được tiến hành thường xuyên; nhiều đơn vị nội dung phối hợp còn chung chung, mang tính hình thức, khó thực hiện; chưa quan tâm và thực hiện đầy đủ nội dung quy chế dân chủ trong cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp dẫn đến tình trạng cán bộ đoàn viên và người lao động khiếu nại, thắc mắc vượt cấp. Một số nơi, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp còn xem nhẹ vai trò của công đoàn cơ sở, Chủ tịch công đoàn cơ sở; một số doanh nghiệp chủ doanh nghiệp kiêm luôn Chủ tịch Công đoàn… nên xây dựng quy chế phối hợp một cách hình thức, việc đối thoại thương lượng không hiệu quả; cán bộ công đoàn đa phần là kiêm nhiệm, làm cho việc phối hợp gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn.
- Công tác đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, người lao động còn có những mặt hạn chế, có nơi chưa kịp thời; vai trò của một số công đoàn cơ sở còn mờ nhạt, chưa đại diện được cho người lao động trong thương lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể, chưa định hướng được nội dung đối thoại. Hoạt động đại diện và giải quyết những vấn đề liên quan đến quan hệ lao động chưa đạt kết quả cao.
- Luật công đoàn chưa quy định rõ mối quan hệ của tổ chức công đoàn đối với các cơ quan nhà nước (như Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội,..) khi tổ chức công đoàn thực hiện Điều 17 Luật Công đoàn: Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu, đặc biệt là đối với các trường hợp tổ chức công đoàn đại diện cho tập thể người lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động bị xâm phạm (khi được ủy quyền); đại diện người lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động ủy quyền; hỗ trợ bảo vệ quyền lợi người lao động tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động yêu cầu; tham gia tố tụng trong vụ án lao động, hành chính, phá sản doanh nghiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động và người lao động. Hiện nay, còn nhiều vụ khởi kiện chưa giải quyết xong, nhiều doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm xã hội chưa bị xử lý, quyền lợi của người lao động bị xâm phạm nghiêm trọng, chưa được bảo vệ; các cơ quan tố tụng chưa thống nhất quan điểm về việc xem doanh nghiệp chậm nộp là trốn nộp bảo hiểm xã hội gây khó khăn trong việc giải quyết.
- Việc tinh giản biên chế trong hệ thống đoàn thể, cụ thể là đối với tổ chức công đoàn theo chỉ tiêu hàng năm là không phù hợp. Theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị, Liên đoàn Lao động phải tăng cường công tác phát triển đoàn viên, thành lập tổ chức công đoàn ở những nơi có đủ điều kiện. Số lượng tổ chức công đoàn và đoàn viên ngày càng tăng do đó cần tăng số lượng cán bộ công đoàn để thực hiện nhiệm vụ; vì thề việc quy định tinh giản biên chế như hiện nay gây khó khăn cho tổ chức công đoàn trong tổ chức thực hiện.
- Việc thực hiện các quy định về thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn vẫn còn khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn chế như sau:
+ Một bộ phận người sử dụng lao động có những hành vi, tác động cản trở người lao động thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn rất tinh vi, khó xác định như: thuyên chuyển công tác, làm mất uy tín cán bộ công đoàn…
+ Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỉ lệ lớn, quy mô sản xuất nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân có số lao động ít nên việc thành lập và duy trì hoạt động gặp nhiều khó khăn. Nhiều doanh nghiệp không hợp tác, cản trở việc tuyên truyền, vận động thành lập công đoàn cơ sở, gây khó dễ cho cán bộ công đoàn trong quá trình tuyên truyền, phổ biến quy định của pháp luật về công đoàn để phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở.
- Nhiều doanh nghiệp lách luật, chỉ thành lập công đoàn cơ sở với 5 đoàn viên (trong khi doanh nghiệp có rất đông công nhân lao động) vì mục đích sử dụng con dấu công đoàn. Sau khi thành lập, công đoàn cơ sở không hoạt động, không tham gia các hoạt động của công đoàn cấp trên, người sử dụng lao động không đóng kinh phí công đoàn theo quy định.
- Điều 5 Luật Công đoàn 2012, quy định “Người lao động là người Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” mới có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn. Song thực tiễn cho thấy, hiện nay ở nước ta có khoảng trên 90.000 lao động là người nước ngoài đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tại các doanh nghiệp của Việt Nam. Trên thực tế, quan hệ giữa lao động là người nước ngoài với người sử dụng lao động ở một số nơi đã phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp và cần được Công đoàn đại diện, bảo vệ với tư cách là tổ chức chính thống của họ.
Bộ luật Lao động 2019 quy định cho phép người lao động là người nước ngoài được quyền gia nhập “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”, tổ chức này có quyền gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam. Quy định như vậy đã gián tiếp mở ra khả năng cho phép người lao động nước ngoài gia nhập vào tổ chức Công đoàn Việt Nam. Do đó, cần sửa đổi Luật Công đoàn cho phù hợp với Bộ luật Lao động 2019.
- Về đảm bảo các điều kiện hoạt động của công đoàn, Điều 24 Luật Công đoàn quy định cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có trách nhiệm bố trí nơi làm việc và tạo điều kiện về phương tiện làm việc cần thiết cho cán bộ công đoàn cùng cấp hoạt động (tổ trưởng, tổ phó tổ công đoàn). Tuy nhiên, nhiều tổ chức, doanh nghiệp không đảm bảo điều kiện này, không bố trí phòng làm việc và điều kiện về cơ sở vật chất cho cán bộ công đoàn; chưa tạo điều kiện thuận lợi về thời gian làm việc cho cán bộ công đoàn.
IV. KIẾN NGHỊ
1. Đối với Trung ương:
1.1. Kiến nghị Quốc hội sớm xem xét sửa đổi Luật Công đoàn cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, nhằm thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12 tháng 06 năm 2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn việt Nam trong tình hình mới, tạo cơ sở nâng cao vị thế, hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở; hoàn thiện khuôn khổ pháp lý chung về tổ chức và hoạt động cho tổ chức Công đoàn trước đòi hỏi của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Cụ thể kiến nghị sửa đổi, bổ sung các nội dung của Luật Công đoàn năm 2012 như sau:
- Cần phân biệt giữa quyền của đoàn viên công đoàn và người lao động một cách rõ ràng; bổ sung thêm một số quyền và nghĩa vụ của đoàn viên đối với tổ chức đại diện người lao động mà mình tham gia; tập trung nhiệm vụ đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của đoàn viên là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
- Cần làm rõ hơn nữa về quyền Công đoàn, trong đó bao gồm cả quyền cá nhân và quyền tổ chức, để mỗi người lao động, đoàn viên, cán bộ Công đoàn hiểu rõ được cả trách nhiệm và quyền của mình khi gia nhập tổ chức Công đoàn, đồng thời giữ nội dung Điều 9 của Luật Công đoàn và cần bổ sung tương ứng với Điều 175 của Bộ luật Lao động 2019 nhằm bảo vệ tổ chức Công đoàn và cán bộ công đoàn ở cơ sở.
- Bổ sung quy định tố tụng đặc thù đối với các nội dung liên đến pháp luật lao động và pháp luật công đoàn thành 1 chương riêng biệt trong Bộ luật tố tụng dân sự; Sửa đổi, bổ sung các quy định xử lý vi phạm hành chính, quy trình xử lý vi phạm hiện nay theo hướng tăng mức chế tài, hình thức chế tài đối với doanh nghiệp vi phạm và có quy định xử lý đối với các doanh nghiệp né tránh, trì hoãn không tạo điều kiện cho việc thành lập và hoạt động tổ chức Công đoàn và không nộp kinh phí Công đoàn.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm đảm bảo sự thống nhất với hệ thống pháp luật, đặc biệt là văn bản thực hiện hướng dẫn dưới Luật; Tăng cường tính độc lập của cơ chế 3 bên trong quan hệ lao động, bổ sung cơ chế riêng cho tài chính công đoàn, bộ máy, công tác cán bộ công đoàn để đảm bảo tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với Nhà nước – người sử dụng lao động – tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp.
- Kiến nghị bổ sung vào Luật Công đoàn quy định cho phép người lao động có quốc tịch nước ngoài đang sống, làm việc hợp pháp tại Việt Nam gia nhập vào tổ chức Công đoàn Việt Nam; bổ sung điều khoản quy định cụ thể chế tài và xử lý mạnh đối với những đơn vị cố tình có sự né tránh, không muốn thành lập tổ chức công đoàn tại đơn vị.
- Cần quy định cụ thể về kinh phí công đoàn 2% tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp torng điều kiện chỉ có tổ chức Công đoàn Việt Nam và có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại 1 doanh nghiệp.
- Cần quy định chế tài cụ thể hơn các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 9 Luật Công đoàn nhằm tạo điều kiện thuận lợi khi áp dụng.
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 10 về vai trò đại diện của công đoàn cho phù hợp như Bộ luật lao động 2019, Luật bảo hiểm xã hội, Bộ luật dân sự…để tạo sự thống nhất và áp dụng một cách đồng bộ, có hiệu quả. Bổ sung vấn đề mối quan hệ của tổ chức công đoàn với tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp; Tính đại diện theo pháp luật của tổ chức công đoàn đối với người lao động chưa tham gia tổ chức công đoàn và tổ chức đại diện người lao động. Bổ sung chức năng đại diện của công đoàn trong trường hợp người lao động đình công.
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại điều 17 về công đoàn đại diện tập thể người lao động khởi kiện tại Tòa án đối với các doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
+ Điều 17 Luật Công đoàn 2012 quy định: “Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền, trách nhiệm, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu”, kiến nghị bỏ từ “quyền” thành “Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có trách nhiệm, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu”. Vì khi nói đến “quyền” thì Công đoàn cấp trên có quyền từ chối không nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người lao động tại đơn vị chưa có công đoàn khi người lao động yêu cầu.
- Tại Điều 20 Luật Công đoàn 2012 quy định: “Quan hệ giữa Công đoàn với nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, là “quan hệ hợp tác, phối hợp”để thực hiện chức năng, quyền, trách nhiệm cửa các bên theo quy định của pháp luật, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ”. Kiến nghị: Chọn cụm từ thay thế cụm từ “quan hệ hợp tác, phối hợp”. Vì trong quan hệ lao động đôi khi phát sinh mâu thuẫn dẫn đến việc kiện nhau ra tòa. Nếu bên bảo vệ quyền lợi của người lao động (công đoàn) và bên người sử dụng lao động (ông chủ) chỉ dừng lại ở mức giải quyết vụ việc trên cơ sở “quan hệ hợp tác, phối hợp” thì quyền lợi của người lao động (người khiếu kiện) khó được đảm bảo theo mong muốn, do vậy cần có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
1.2. Kiến nghị Chính phủ sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 “quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” về nội dung quy định xử phạt hành chính các doanh nghiệp vi phạm pháp luật lao động theo hướng tăng mức phạt đối với doanh nghiệp vi phạm và có quy định xử lý đối với các doanh nghiệp né tránh, trì hoãn không tạo điều kiện cho việc thành lập và hoạt động tổ chức Công đoàn và không nộp kinh phí Công đoàn.
1.3. Kiến nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam:
- Sớm nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi Luật Công đoàn.
- Cần có những quy định trong Điều lệ Công đoàn để cho thấy sự khác biệt thiết thực, cụ thể khi người lao động tham gia tổ chức Công đoàn với người lao động chưa tham gia tổ chức Công đoàn. Điều chỉnh nhiệm vụ của các cấp công đoàn theo hướng tập trung vào các nhiệm vụ cốt lõi, phù hợp với đặc thù từng cấp và từng địa phương nhất là địa phương có đông doanh nghiệp, đông người lao động.
- Kiến nghị Tổng Liên đoàn và Tòa án nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn thực hiện trong thời gian tới về quy định cơ chế giao cho công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở (Liên đoàn lao động quận, huyện; Công đoàn các Khu chế xuất – công nghiệp tỉnh, thành phố) có quyền khởi kiện. Quy định rõ cấp công đoàn đại diện tham gia khởi kiện, thành phần được tham gia tố tụng, mối quan hệ của tổ chức công đoàn với các cơ quan nhà nước có liên quan trong quá trình đại diện cho người lao động tham gia khởi kiện.
- Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ công đoàn, nhất là đối với cán bộ công đoàn cơ sở; ban hành quy định định biên cán bộ chuyên trách công đoàn, xây dựng cơ cấu tổ chức cho phù hợp với đặc điểm tình hình của từng địa phương, theo quy mô quản lý Công đoàn cơ sở, số lượng đoàn viên, công nhân viên chức, người lao động.
- Cần tiếp tục quan tâm xây dựng chính sách cho đội ngũ cán bộ công đoàn để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng trong hoạt động công đoàn. Bổ sung thêm cơ chế đặc thù cho đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước; tăng thời gian hoạt động cho cán bộ công đoàn kiêm nhiệm tại các doanh nghiệp để ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn, do cán bộ công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp vừa phải thực hiện trách nhiệm đối với người sử dụng lao động, vừa phải thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động.
- Theo quy định tại Quyết định số 1439/QĐ-TLĐ ngày 14/12/2021 của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam về việc ban hành quy định chế độ phụ cấp cán bộ công đoàn thì trong chế độ phụ cấp cán bộ công đoàn cơ sở quy định đối tượng và phạm vi áp dụng không có chức danh Tổ phó công đoàn; Phó Chủ tịch Công đoàn bộ phận và Ban Chấp hành Công đoàn bộ phận; mặc dù nhiều công đoàn cơ sở có đông đoàn viên thì có những chức danh này và đều được gọi là cán bộ công đoàn nhưng lại không được hưởng phụ cấp cán bộ công đoàn. Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định, hướng dẫn hiện hành này cho phù hợp.
2. Đối với Ủy ban nhân dân Thành phố:
Kiến nghị Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ đạo các sở, ngành chức năng tiếp tục thực hiện đầy đủ trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện cho công đoàn thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật; tăng cường phối hợp với Liên đoàn Lao động Thành phố để kiểm tra, giám sát việc thực hiện Luật Công đoàn và các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động (bảo hiểm xã hội, giải quyết đình công, giải quyết tranh chấp lao động và xử lý hành vi vi phạm pháp luật công đoàn, an toàn lao động, thanh tra, kiểm tra,…). Các cơ quan quản lý Nhà nước, các cấp chính quyền Thành phố khi xây dựng các chương trình, kế hoạch về kinh tế - xã hội thì mời đại diện của Liên đoàn Lao động tham gia để góp ý các nội dung liên quan về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, đoàn viên công đoàn; tạo điều kiện để tổ chức công đoàn thực hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội theo quy định.
2.1. Đối với Liên đoàn Lao động Thành phố và công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở:
- Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến các quy định của Luật Công đoàn đến công đoàn cơ sở, nhất là đội ngũ làm công tác công đoàn tại công đoàn cơ sở nhằm nâng cao nhận thức trách nhiệm của đội ngũ làm công tác công đoàn tại công đoàn cơ sở. Bên cạnh đó cần đổi mới hình thức, nội dung công tác thông tin, tuyên truyền về Luật Công đoàn; nội dung tuyên truyền, phổ biến cần được tổ chức, thiết kế phù hợp cho từng đối tượng; chú trọng việc ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện thông tin đại chúng trong công tác tuyên truyền; đẩy mạnh và phát huy vai trò báo chí công đoàn, có chương trình phối hợp với báo chí – truyền thông để tuyên truyền, phổ biến Luật Công đoàn tới đoàn viên, người lao động.
- Tiếp tục củng cố, kiện toàn nhân sự của công đoàn các cấp đảm bảo hoạt động hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn; đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên thành lập công đoàn cơ sở.
- Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn Công đoàn cơ sở thực hiện hiệu quả các quy định của Luật Công đoàn; kịp thời đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn tại cơ sở; xây dựng kế hoạch, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng lý luận nghiệp vụ và kỹ năng hoạt động cho cán bộ công đoàn cơ sở trực thuộc.
-Tiếp tục duy trì và thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát hoạt động công đoàn cơ sở. Hàng năm tổ chức tổng kết đánh giá công tác phát triển đoàn viên và xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh.
- Chủ động trong công tác liên tịch, phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố, các sở ngành liên quan nhằm triển khai thực hiện tốt các Nghị quyết liên tịch, các nội dung phối hợp.
Trên đây là báo cáo kết quả giám sát tình hình thực hiện Luật Công đoàn năm 2012 trên đại bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ 01/01/2018 – 30/6/2021, kính báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Lồng ghép trong các cuộc họp giao ban, sinh hoạt công đoàn, các buổi tọa đàm, tổ chức hội thi tìm hiểu kiến thức pháp luật trong đoàn viên, người lao động… đã tổ chức trên 200.000 buổi tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu những nội dung cơ bản, những điểm mới của Luật Công đoàn 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành cho đội ngũ báo cáo viên của Công đoàn, cán bộ công đoàn, đoàn viên công đoàn và người lao động. Hệ thống báo chí thuộc tổ chức Công đoàn như Báo Lao động, Báo Người lao động, các Trang thông tin điện tử, Truyền hình Lao động và Công đoàn... đã có nhiều tin, bài, phóng sự nhằm tuyên truyền sâu rộng các nội dung liên quan của Luật Công đoàn 2012.
Điều 6 Luật Công đoàn 2021:
“1. Công đoàn được thành lập trên cơ sở tự nguyện, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Công đoàn được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”.
Thực hiện thí điểm trong dự án”Thúc đẩy đối thoại xã hội tại nơi làm việc và thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp trong khuôn khổ dự án công đoàn hà lan (CNV) đã ký kết được 2 bản thỏa ước lao động tập thể nhóm dệt may trên địa bàn Quận Thủ Đức và Quận Tân Bình.
Theo báo cáo của Công đoàn Viên chức Thành phố, trong đợt dịch vừa qua đã hỗ trợ 03 đoàn viên công đoàn là F0 đang điều trị bệnh, với số tiền hỗ trợ 9 triệu; 38 đoàn viên công đoàn, người lao động là F1, cách ly y tế 21 ngày tại nơi cách ly tập trung, số tiền 57 triệu đồng. Tổng số tiền chăm lo trong đợt 1 là: 153.500.000 đồng; hỗ trợ 68 đoàn viên công đoàn theo Phương án số 03/PA-LĐLĐ: mức hỗ trợ tối đa 25.000 đồng/ngày x số ngày thực tế bị cách ly, số tiền 23,8 triệu đồng; 66 trường hợp bị tạm hoãn Hợp đồng lao động, 160 đoàn viên bị ngừng việc do thu hẹp sản xuất, tổng cộng 113 triệu đồng. Tổng số tiền chăm lo trong đợt 2 là 176.800.000 đồng. Ngoài ra Công đoàn viên chức thành phố và hệ thống cơ sở không chỉ chăm lo nội bộ cho các đối tượng đoàn viên công đoàn đang quản lý mà còn tham gia vận động các nguồn lực, kết nối với Mạnh thường quân, các Công đoàn Viên chức các tỉnh thành để cùng với hệ thống chính trị cơ sở chăm lo cho đội ngũ y tế tại bệnh viện dã chiến và y tế cơ sở và cán bộ công chức tuyến đầu, chăm lo các túi an sinh xã hội tại các quận, huyện trên của thành phố với số tiền trên 17 tỷ đồng.