Đăng nhập

 

 

NỘI DUNG CÁC CUỘC GIÁM SÁT, KHẢO SÁT
Kết quả giám sát tình hình thực hiện Luật Thanh tra trên địa bàn Thành phố giai đoạn từ 01/01/2018 - 30/6/2021

 Thực hiện Kế hoạch số 05/KH-ĐĐBQH, ngày 15 tháng 9 năm 2021, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh đã đề nghị Ủy ban nhân dân Thành phố, các Sở, ngành, Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức và các quận, huyện báo cáo bằng văn bản; đồng thời tổ chức Đoàn giám sát làm việc trực tiếp với Uỷ ban nhân dân huyện Bình Chánh, Sở Xây dựng Thành phố, Thanh tra Thành phố và các sở, ngành có liên quan về Tình hình thực hiện Luật Thanh tra 2010 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ 01/01/2018 - 30/6/2021.

Dưới đây là báo cáo kết quả giám sát:

I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THANH TRA

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, quán triệt Luật Thanh tra và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành

1.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo

Ủy ban nhân dân Thành phố luôn xác định thanh tra là một chức năng rất quan trọng trong công tác quản lý nhà nước, là hoạt động bảo đảm thực hiện nghiêm túc các chính sách, pháp luật, xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy quyền dân chủ của công dân. Lãnh đạo Thành phố luôn quan tâm kịp thời chỉ đạo, quán triệt Thanh tra Thành phố nâng cao trách nhiệm trong thực thi pháp luật về thanh tra và thực hiện tốt nhiệm vụ “Chỉ đạo công tác thanh tra, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra hành chính đối với Thanh tra sở, Thanh tra huyện”, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra trên toàn địa bàn thành phố; đồng thời luôn chú trọng, tạo mọi điều kiện thuận lợi để cơ quan Thanh tra Thành phố nói riêng và toàn ngành Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh nói chung hoàn thành tốt nhiệm vụ.

1.2. Công tác tuyên truyền, quán triệt

Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo các sở - ngành, thành phố Thủ  Đức và các quận - huyện, đặc biệt là Thanh tra Thành phố quan tâm thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có Luật Thanh tra nhằm nâng cao nhận thức và tạo sự đồng bộ trong triển khai thực hiện. Trên cơ sở chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố, các sở-ngành, quận-huyện, thành phố Thủ Đức đã kịp thời phổ biến các quy định pháp luật thanh tra ngay khi có hiệu lực pháp luật. Thanh tra Thành phố đã thường xuyên tổ chức tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ thanh tra cho toàn thể đội ngũ chuyên viên, công chức ngành Thanh tra Thành phố. Trong niên độ báo cáo, Thanh tra Thành phố đã thực hiện 03 cuộc tuyên truyền cho 550 lượt người tham dự và lồng ghép phổ biến trong các buổi sinh hoạt chuyên đề Cụm, khối thi đua của ngành Thanh tra Thành phố.

Trong năm 2020, để góp phần khắc phục những tồn tại, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, nâng cao hiệu quả họat động công vụ và uy tín của người làm công tác thanh tra và ngành Thanh tra, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Văn bản 1759/UBND-NCPC ngày 14 tháng 5 năm 2020 về tăng cường hiệu quả công tác thanh tra. Theo đó, Ủy ban nhân dân Thành phố phân định rõ trách nhiệm của Thủ trưởng sở - ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận - huyện, Chánh Thanh tra Thành phố, Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố và Công an Thành phố.

2. Tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức của cơ quan Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh

2.1. Hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra thuộc phạm vi quản lý và mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, hệ thống cơ quan thanh tra bao gồm: (1) Thanh tra Thành phố; (2) Thanh tra 18 sở-ban-ngành trực thuộc Thành phố và 03 đơn vị thanh tra theo ngành dọc (Công an Thành phố, Bộ Tư lệnh Thành phố và Cục thống kê). (3) Thanh tra Thành phố Thủ Đức, thanh tra 21 quận-huyện. (4) Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (chi cục thuộc Sở).

Thanh tra Thành phố xây dựng quan hệ phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với Thanh tra sở, ngành, quận, huyện trong việc chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra, đôn đốc việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra của Thanh tra sở, ngành, Thành phố Thủ Đức, quận, huyện; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác tổ chức và nghiệp vụ thanh tra; phối hợp, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra đối với đội ngũ cán bộ, công chức, làm công tác thanh tra của toàn ngành.

2.2. Tổ chức cơ quan Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh

Thanh tra Thành phố là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố hoạt động theo Quy chế tổ chức và hoạt động ban hành kèm theo Quyết định số 19/2016/QĐ-UBND ngày 25 tháng 5 năm 2016 của Ủy ban nhân dân Thành phố; có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân Thành phố quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố giao. Thanh tra Thành phố chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân Thành phố mà trực tiếp là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố; đồng thời chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ

- Về bộ máy: Văn phòng, 06 Phòng nghiệp vụ và 02 phòng chuyên môn (phòng Thanh tra phòng, chống tham nhũng và phòng Giám sát, kiểm tra và xử lý sau thanh tra) làm việc theo Quy chế tổ chức và hoạt động do Chánh Thanh tra Thành phố ban hành.

- Về biên chế: Biên chế được giao năm 2021 của Thanh tra Thành phố là 159 biên chế gồm 151 công chức và 08 Hợp đồng theo Nghị định 68. Tổng số biên chế giao đã sử dụng: 153 biên chế (tính đến ngày 20 tháng 9 năm 2021), trong đó:

+ Tổng số công chức, nhân viên: 153 (trong đó có 146 biên chế và 07 Hợp đồng theo Nghị định 68)

+ Về trình độ: 31 trên đại học; 115 Đại học; 07 từ Phổ thông trung học trở xuống

+ Về ngạch bậc: 50 Thanh tra viên chính và tương đương; 95 Thanh tra viên và tương đương; 01 Cán sự và 07 Nhân viên.

+ Về cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ chủ chốt của cơ quan: 01 đồng chí Chánh Thanh tra; 03 đồng chí Phó Chánh Thanh tra; 01 Chánh Văn phòng, 03 Phó chánh Văn phòng, 07 Trưởng phòng, 21 Phó Trưởng phòng.

2.3. Biên chế, cơ cấu ngạch, bậc; công tác đào tạo, bồi dưỡng; việc thực hiện chuyển ngạch, nâng ngạch của đội ngũ công chức, viên chức trong các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra.

2.3.1- Về biên chế, cơ cấu ngạch, bậc

- Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh: 01 đồng chí Chánh Thanh tra; 03 đồng chí Phó Chánh Thanh tra.

-  Thanh tra Thành phố Thủ Đức, quận, huyện: Tổng số biên chế được giao: 236; số biên chế hiện có: 214 (tỷ lệ 90,67%), trong đó: 06/22 đơn vị đảm bảo biên chế được giao, 16/22 đơn vị thiếu so với biên chế được giao; Nhân sự lãnh đạo: 22 Chánh Thanh tra và 46 Phó Chánh Thanh tra, trong đó có 3 đơn vị khuyết Phó Chánh Thanh tra (Thanh tra Quận 3, Thanh tra Quận 4, Thanh tra Quận Tân Bình).

- Thanh tra Sở ngành: 18 đơn vị: Tổng số biên chế được giao: 1470; Tổng số biên chế hiện có: 1395 (tỷ lệ 94,89%), trong đó: 07/18 đơn vị đảm bảo biên chế được giao, 11/18 đơn vị thiếu so với biên chế được giao; Nhân sự lãnh đạo: 03/18 đơn vị khuyết Chánh Thanh tra (Thanh tra Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Thanh tra Ban Dân tộc và Thanh tra Sở Nội vụ), 03/18 đơn vị khuyết Phó Chánh Thanh tra (Thanh tra Ban Dân tộc, Thanh tra Sở Quy hoạch Kiến trúc, Thanh tra Sở Khoa học công nghệ)

2.3.2- Về công tác đào tạo, bồi dưỡng

Tính từ năm 2018 đến 6 tháng đầu năm 2021, Thanh tra Thành phố đã phối hợp với Sở Nội vụ và Trường cán bộ Thanh tra tổ chức và cử 1.092 lượt công chức thuộc Thanh tra Thành phố và thanh tra sở-ngành, Thành phố Thủ Đức-quận-huyện tham gia đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ liên quan hoạt động của ngành thanh tra nhằm trang bị những kiến thức cơ bản pháp luật về thanh tra; tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; quy trình nghiệp vụ, kỹ năng tiến hành một cuộc thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra theo yêu cầu trình độ, tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch Thanh tra viên, Thanh tra viên chính (chi tiết thể hiện tại Phụ lục đính kèm)

2.3.3 Về thực hiện chuyển ngạch, nâng ngạch

Từ năm 2018 đến tháng 6/2021: Thanh tra Thành phố đã phối hợp với Sở Nội vụ thẩm định, trình Hội đồng thông qua 413 trường hợp đề nghị bổ nhiệm ngạch thanh tra viên (Thanh tra Thành phố: 19 trường hợp; Thanh tra Sở, ngành: 322 trường hợp, Thanh tra quận, huyện: 72 trường hợp)04 trường hợp đề nghị bổ nhiệm ngạch Thanh tra viên chính và 01 trường hợp đề nghị chuyển ngạch kiểm tra viên chính sang ngạch thanh tra viên chính.

2.3.4 Cơ chế đảm bảo kinh phí cho hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, bao gồm cả việc đảm bảo chính sách, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ công chức, viên chức.

Kinh phó hoạt động, chế độ, chính sách, tiền lương, phụ cấp, trang phục và chế độ đặc thù đối với Thanh tra viên được thực hiện theo đúng quy định. Cán bộ trực tiếp làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn được hỗ trợ chi phí theo quy định.

3. Công tác xây dựng, phê duyệt kế hoạch thanh tra và điều phối, xử lý chồng chéo, trùng lắp trong họat động thanh tra

      3.1. Việc xây dựng, phê duyệt kế hoạch thanh tra và điều chỉnh kế hoạch thanh tra hàng năm

Việc xây dựng, phê duyệt kế hoạch thanh tra và điều chỉnh kế hoạch thanh tra được thực hiện theo Thông tư số 01/2014/TT-TTCP ngày 23 tháng 4 năm 2014 của Thanh tra Chính phủ. Hàng năm, bám sát định hướng của Thanh tra Chính phủ và chỉ đạo của Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố, chương trình công tác, Thanh tra Thành phố đã kịp thời có Văn bản hướng dẫn xây dựng Kế hoạch công tác thanh tra hàng năm cho sở-ngành, quận huyện, đảm bảo đầy đủ nội dung về công tác thanh tra, khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và một số lĩnh vực trọng tâm khác. Đây là cơ sở để các sở-ngành, quận-huyện xây dựng Kế hoạch công tác thanh tra có trọng tâm, vừa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu thanh tra, kiểm tra của ngành, lĩnh vực, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước của Thành phố.

Quá trình giám sát cho thấy, nội dung trọng tâm trong công tác thanh tra hàng năm sát với thực tiễn tình hình địa phương, thực hiện hiệu quả vai trò tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện công tác thanh tra[1]. Bên cạnh đó, từ năm 2018 đến nay, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố đã tổ chức lấy kiến của tất cả thành viên Ban Cán sự Đảng Ủy ban nhân dân Thành phố về các nội dung dự kiến thanh tra trong năm mới nhằm đảm bảo kế hoạch thanh tra sát với từng lĩnh vực, đảm bảo tính toàn diện, đúng đối tượng thanh tra gắn sát với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và đảm bảo hiệu quả trong thực hiện các chuyên đề thanh tra diện rộng, được dư luận quan tâm và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động công tác thanh tra.

      Việc điều chỉnh kế hoạch thanh tra được báo cáo và chấp thuận phê duyệt của Thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính cùng cấp. Bên cạnh đó, Quyết định điều chỉnh kế hoạch thanh tra của sở, ngành, quận, huyện đều được gửi Thanh tra Thành phố để nắm thông tin, tổng hợp.

Nhìn chung, việc xây dựng và ban hành kế hoạch thanh tra hàng năm đảm bảo xác định đúng lĩnh vực, đúng nội dung trọng tâm, đúng đối tượng thanh tra gắn sát với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực tiễn tình hình tại từng địa phương, đơn vị, đảm bảo hiệu quả trong thực hiện các chuyên đề thanh tra diện rộng, được dư luận quan tâm.

      3.2. Việc hướng dẫn, kiểm tra công tác xây dựng kế hoạch thanh tra và thực hiện kế hoạch thanh tra hàng năm

Định kỳ hàng năm, trên cơ sở định hướng thanh tra của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Thành phố đều có Văn bản hướng dẫn sở-ngành, quận-huyện xây dựng kế hoạch thanh tra; nêu rõ những vấn đề trọng tâm, lĩnh vực cần lưu ý để khảo sát và đưa vào kế hoạch thanh tra, đảm bảo quy định, sát với tình hình nhiệm vụ chính trị của Thành phố và cơ quan đơn vị, tránh chồng chéo, hình thức, gây phiền hà cho địa phương, cơ sở, doanh nghiệp. Đồng thời, chú trọng thanh tra trách nhiệm thủ trưởng trong công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và thanh tra công vụ trong các lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm, tiêu cực, tham nhũng.

Kế hoạch công tác thanh tra hàng năm của sở-ngành, quận-huyện được giao về các phòng chuyên môn nghiệp vụ, Thanh tra Thành phố theo địa bàn, lĩnh vực phụ trách để có sự theo dõi về kết quả triển khai, thực hiện. Đồng thời, căn cứ vào báo cáo kết quả công tác thanh tra 06 tháng, năm, Thanh tra Thành phố nhắc nhở, đôn đốc đối với các đơn vị chưa đảm bảo tiến độ kế hoạch công tác thanh tra khẩn trương có giải pháp để hoàn thành nhiệm vụ đề ra. Hầu hết các Đoàn Thanh tra theo kế hoạch được thực hiện và ban hành kết luận thanh tra cùng năm. Tuy nhiên, do phát sinh nhiều Đoàn thanh tra đột xuất theo chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, nhân lực có giới hạn nhất định và cùng lúc đảm nhận nhiều nhiệm vụ nên vẫn còn đơn vị chưa thực hiện ban hành kết luận thanh tra cùng năm. Có một vài Đoàn Thanh tra kéo dài vụ việc phức tạp. Riêng năm 2021, do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 nên khó đảm bảo hoàn thành.

Bên cạnh đó, thanh tra trách nhiệm trong thực hiện pháp luật thanh tra là một trong những nội dung trọng tâm, được Thanh tra Thành phố triển khai thực hiện hàng năm. Qua đó, kịp thời khắc phục, chấn chỉnh những thiếu sót trong hoạt động thanh tra, đảm bảo việc chấp hành nghiêm túc, đồng bộ các quy định pháp luật về thanh tra.

3.3. Việc theo dõi, phối hợp xử lý chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra

Thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 20 CT-TTg ngày 17 tháng 5 năm 2017 và Quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh sau đăng ký thành lập (được ban hành kèm theo Quyết định số 33/QĐ-UBND ngày 06 tháng 9 năm 2016 của Ủy ban nhân dân Thành phố), đối với Thanh tra Thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố kịp thời thông tin các Kế hoạch thanh tra của bộ, ngành Trung ương để khắc phục việc chồng chéo ngay trong quá trình xây dựng dự thảo Kế hoạch thanh tra hàng năm; kịp thời xử lý đề xuất của Thanh tra Thành phố khi phát sinh trùng lắp trong quá trình tiến hành thanh tra của Thanh tra Thành phố với Kiểm toán Nhà nước khu vực IV và Bộ, ngành Trung ương; đồng thời giao Thanh tra Thành phố làm đầu mối rà soát, xử lý trùng lắp đối tượng doanh nghiệp được dự kiến thanh tra, kiểm tra hàng năm. Quá trình chỉ đạo triển khai các Đoàn thanh tra đột xuất đều có sự rà soát toàn diện, xác định tính chất vụ việc liên quan đến doanh nghiệp cần phải thanh tra, kiểm tra và chỉ giao tiến hành thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, hàng năm, Thanh tra Thành phố làm đầu mối rà soát, xử lý cơ bản bước đầu sự trùng lắp trong đối tượng doanh nghiệp được dự kiến thanh tra, kiểm tra[2]. Căn cứ kết quả rà soát, Thanh tra Thành phố có Văn bản đề nghị các sở-ngành chủ động trao đổi thống nhất đơn vị tiến hành thanh tra; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận, huyện (có trùng lắp về đối tượng doanh nghiệp dự kiến thanh tra, kiểm tra trong năm) để thống nhất xác định chủ thể tiến hành thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp thực hiện các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành. Trên cơ sở xử lý trùng lắp, Thủ trưởng các sở, ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện ban hành hoặc điều chỉnh kế hoạch thanh tra và kế hoạch thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp năm theo quy định.

Đối với Thanh tra sở-ngành, quận-huyện: Giám đốc sở-ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện đã chỉ đạo công tác thanh tra đảm bảo đúng trình tự, thủ tục luật định; phê duyệt, ban hành kịp thời Kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm; giao Thanh tra sở-ngành, quận-huyện làm đầu mối, phối hợp chặt chẽ với các phòng, ban chuyên môn, đơn vị trực thuộc để xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra theo hướng kết hợp thực hiện các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành đối với doanh nghiệp, giảm bớt số lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra và tránh việc nhiều đoàn cùng vào thanh tra, kiểm tra tại một doanh nghiệp trong cùng một năm.

4. Hoạt động thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và thanh tra nhân dân (số liệu tính từ ngày 01/01/2018 – 30/6/2021) 

4.1. Tổng số cuộc thanh tra đã tiến hành:

- Về thanh tra hành chính: Từ ngày 01/01/2018 đến 30/6/2021, Thanh tra Thanh phố, Thanh tra các sở-ngành, Thanh tra Thành phố Thủ Đức và các quận-huyện đã triển khai thực hiện 910 cuộc thanh tra hành chính, trong đó có 759 cuộc theo kế hoạch và 151 cuộc đột xuất. Đến nay, có 880 cuộc đã ban hành Kết luận thanh tra, 02 cuộc không ban hành Kết luận thanh tra, 13 cuộc đang tạm dừng thanh tra (do thực hiện việc giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng chính phủ về các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19), 15 cuộc chưa ban hành Kết luận thanh tra.

- Về thanh tra chuyên ngành: Tổng số cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành thực hiện: 39.998 cuộc, trong đó có 1.982 cuộc thành lập đoàn và 38.016 cuộc thanh tra độc lập. Số tổ chức, cá nhân được thanh tra, kiểm tra: 65.950 (gồm 33.169 tổ chức và 32.781 cá nhân).

4.2. Tổng hợp kết quả hoạt động thanh tra, bao gồm tổng số cá nhân, tổ chức bị kiến nghị xử lý (hình thức xử lý); tổng giá trị sai phạm về kinh tế bị kiến nghị xử lý (hình thức xử lý); tổng hợp kiến nghị về chính sách, pháp luật. 

Toàn ngành Thanh tra Thành phố đã tổ chức thực hiện đạt và vượt kế hoạch các năm. Qua thanh tra, đã phát hiện các sai phạm trong thực hiện dự án, đầu tư xây dựng, quản lý vốn nhà nước, quản lý đất đai, phòng chống tham nhũng; đồng thời kiến nghị chấn chỉnh, xử lý kịp thời nhằm ngăn chặn phát sinh sai phạm, khắc phục hậu quả đã xảy ra, kiến nghị sửa đổi, bổ sung về cơ chế, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tế để đảm bảo quyền lợi cho người dân, cơ quan, tổ chức, tránh thiệt hại và thu hồi tài sản về cho nhà nước, đồng thời chuyển cơ quan điều tra những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự…. Kết quả cụ thể như sau:

- Về thanh tra hành chính: Qua hoạt động thanh tra đã phát hiện vi phạm về kinh tế với số tiền 9.851.372.546.204 đồng và 6.459.510 m2 đất, trong đó:

+ Kiến nghị xử lý về kinh tế: thu hồi về ngân sách nhà nước số tiền là 1.091.679.693.453 đồng và 76.534,6 m2 đất; xử lý khác về kinh tế số tiền là 8.759.692.852.751 đồng và 6.382.975,3 m2 đất.

+ Kiến nghị xử lý trách nhiệm: xử lý hành chính 518 tổ chức và 1.705 cá nhân; kiến nghị chuyển cơ quan điều tra 43 vụ và 27 đối tượng.

 Kết quả thực hiện các kiến nghị:

+ Về kinh tế: đã thu hồi về ngân sách nhà nước số tiền 1.081.282.002.476 đồng/1.091.679.693.453 đồng; đã xử lý khác về kinh tế số tiền 853.861.863.642 đồng/8.759.692.852.751 đồng.

+ Về trách nhiệm: đã xử lý kỷ luật hành chính 1.083 tập thể (hình thức xử lý là kiểm điểm, rút kinh nghiệm) và 3.611 cá nhân (trong đó có các hình thức xử lý gồm: 107 khiển trách, 49 cảnh cáo, 06 hạ bậc lương, 1 giáng chức, 14 cách chức, 02 buộc thôi việc, 3.432 phê bình, kiểm điểm, rút kinh nghiệm).

- Về thanh tra chuyên ngành: Kết quả qua công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, thanh tra các sở-ngành đã phát hiện 43.063 tổ chức, cá nhân có vi phạm (gồm 15.232 tổ chức và 27.831 cá nhân), cụ thể như sau:

+ Phát hiện vi phạm về tiền là 11.432.383.639 đồng, trong đó, kiến nghị thu hồi số tiền 11.382.988.588 đồng và kiến nghị xử lý khác số tiền 49.395.051 đồng; kiến nghị thu hồi nhà đất số 25 Pasteur, phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1 (diện tích 95,2 m2) và khu đất diện tích 8.287,6 m2 tại số 01 Công trường Quốc tế, Phường 6, Quận 3.

+ Đã ban hành 41.681 quyết định xử phạt vi phạm hành chính (gồm 13.633 quyết định đối với tổ chức và 28.048 quyết định đối với cá nhân); số tiền xử phạt vi phạm hành chính là 329.075.218.190 đồng (gồm 267.766.727.690 đồng của tổ chức và 61.308.490.500 đồng của cá nhân); chuyển cơ quan điều tra xử lý 81 vụ việc và 99 đối tượng.

4.3. Số cuộc thanh tra kết thúc đúng tiến độ; số cuộc chậm tiến độ tính tổng số và theo hàng năm trong giai đoạn tổng kết (nêu rõ chậm ở giai đoạn nào trong quá trình tiến hành hoạt động thanh tra). 

- Về thanh tra hành chính: Số cuộc thanh tra kết thúc đúng tiến độ: 608 cuộc. Số cuộc thanh tra kết thúc chậm tiến độ: 272 cuộc (trong đó: năm 2018: 112 cuộc; năm 2019: 91 cuộc; năm 2020: 59 cuộc; năm 2021: 10 cuộc).

 Hoạt động thanh tra được tiến hành thực hiện đảm bảo theo đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục, thẩm quyền quy định của Luật Thanh tra. Tuy nhiên, vẫn còn một số cuộc thanh tra vẫn chưa đảm bảo tiến độ so với thời gian quy định, số cuộc ban hành Kết luận thanh tra trễ hạn trong niên độ báo cáo còn cao, chiếm tỷ lệ 40,93%. Nguyên nhân chủ yếu là do nội dung thanh tra phức tạp, thời kỳ thanh tra dài. Có nhiều cuộc đối tượng thanh tra không hợp tác, cung cấp không đúng, không đầy đủ thông tin tài liệu theo yêu cầu của Đoàn thanh tra; có một số nội dung cần phải xin ý kiến của các cơ quan chuyên môn và cơ quan có thẩm quyền… Bên cạnh đó, trong năm 2020 và năm 2021 dịch bệnh COVID-19 xảy ra và có nhiều diễn biến phức tạp, toàn Thành phố phải thực hiện việc giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15, Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ do đó đã ảnh hưởng đến tiến độ làm việc của các cuộc thanh tra, một số cuộc thanh tra phải tạm dừng để đảm bảo phòng, chống dịch bệnh.

- Về thanh tra chuyên ngành: trong giai đoạn từ 01/01/2018 đến 30/6/2021, có 1.480 cuộc thanh tra được thành lập đoàn. Số cuộc thanh tra kết thúc đúng tiến độ: 1.401 cuộc; Số cuộc thanh tra kết thúc chậm tiến độ: 54 cuộc (trong đó: năm 2018: 29 cuộc; năm 2019: 17 cuộc; năm 2020: 07 cuộc; năm 2021: 01 cuộc); Số cuộc thanh tra tạm dừng: 05 cuộc; Số cuộc chưa ban hành Kết luận thanh tra: 19 cuộc; Không ban hành Kết luận thanh tra: 01 cuộc.

Số cuộc thanh tra kết thúc chậm tiến độ chủ yếu do: doanh nghiệp có nhiều địa điểm hoạt động, nhân sự của doanh nghiệp thay đổi, do đó, chậm cung cấp hồ sơ giải trình của doanh nghiệp; các đoàn thanh tra chuyên ngành có tính chất đặc thù nên trong khâu kiến nghị, xử lý, dự thảo Kết luận thanh tra phải lấy ý kiến cơ quan chuyên môn nên mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, có nhiều Đoàn thanh tra nội dung phức tạp nhưng không có quy định điều chỉnh, gia hạn thời gian thực hiện cuộc thanh tra của sở-ngành, quận-huyện cũng như có một số trình tự, thủ tục chưa phù hợp thực tiễn (việc ghi nhật ký Đoàn thanh tra)

4.4. Việc thực hiện công khai Kết luận thanh tra

Việc thực hiện công khai kết luận thanh tra được các cơ quan thực hiện đúng quy định. Bên cạnh việc thực hiện công khai Kết luận thanh tra với hình thức bắt buộc “công bố tại cuộc họp” đa số sở-ngành, quận-huyện chọn thêm hình thức công khai “Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra”. Tuy nhiên, việc kiểm tra đối với kết quả thực hiện công khai Kết luận thanh tra tại trụ sở làm việc của đối tượng thanh tra chưa được đồng bộ, một số trường hợp khó có cơ sở kiểm chứng.

Các Đoàn Thanh tra do Thanh tra Thành phố thực hiện nghiêm túc, đúng quy định việc công khai Kết luận thanh tra với hình thức bắt buộc “công bố tại cuộc họp với thành phần gồm người ra quyết định thanh tra hoặc người được ủy quyền, đại diện Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, cá nhân có liên quan. Trong giai đoạn từ tháng 01 năm 2018 đến 30 tháng 6 năm 2021, Thanh tra Thành phố đã tiến hành công bố tại cuộc họp với thành phần theo quy định đối với 119/121 Kết luận thanh tra đã ban hành và công bố thông qua việc gửi thư đảm bảo theo đường bưu điện đến đối tượng thanh tra và cơ quan, tố chức, cá nhân có liên quan đối với 02/121 Kết luận thanh tra đã ban hành (do thực hiện giãn cách xã hội theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố trong các đợt cao điểm phòng, chống dịch bệnh Covid-19). Đồng thời, Thanh tra Thành phố công khai trên trang thông tin điện tử của cơ quan đối với 67/120 Kết luận thanh tra.

4.5. Số vụ việc chuyển cơ quan điều tra cùng cấp (bao gồm cả chuyển đề nghị khởi tố và chuyển xem xét, khởi tố) và kết quả phối hợp xử lý các vụ việc đã chuyển (số vụ đã khởi tố, số vụ đang xác minh; số vụ không khởi tố).

- Về Thanh tra hành chính: Số vụ việc chuyển cơ quan điều tra cùng cấp: 41 vụ và 27 đối tượng[3]. Số vụ việc chuyển cơ quan điều tra cấp trên: 08 vụ, trong đó: có 06 vụ Thanh tra Thành phố đã chuyển theo yêu cầu cung cấp tài liệu của Cục An ninh kinh tế - Bộ Công an; 01 vụ Thanh tra Thành phố đã có văn bản chuyển hồ sơ cho Cơ quan cảnh sát điều tra - Bộ Công an nhưng do thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 nên chưa tiến hành bàn giao hồ sơ; 01 vụ Thanh tra quận Gò Vấp đã có văn bản chuyển cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh nhưng do thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 và tập trung cho công tác phòng, chống dịch nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh chưa liên hệ nhận hồ sơ.

- Về Thanh tra chuyên ngành: Số vụ việc đã chuyển cơ quan điều tra cùng cấp: 81 vụ và 99 đối tượng; Số vụ đã khởi tố: 01 vụ và 01 đối tượng; Số vụ đang xác minh: 33 vụ và 31 đối tượng; Số vụ không khởi tố: 47 vụ và 67 đối tượng.

4.6. Số vụ việc chuyển cơ quan điều tra cùng cấp

Số vụ việc chuyển cơ quan điều tra cùng cấp: 16 vụ và 02 đối tượng[4]; Số vụ việc chuyển cơ quan điều tra cấp trên: 07 vụ.

5. Hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động thanh tra và theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra

5.1 Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động Đoàn thanh tra

Các Đoàn Thanh tra thực hiện nghiêm túc quy định về hoạt động giám sát Đoàn thanh tra, nhất là sau khi Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư số 05/2015/TT-TTCP ngày 10 tháng 9 năm 2015 quy định về giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra, tất cả các Đoàn thanh tra (kể cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành) đều có cán bộ giám sát. Nhờ vậy, hoạt động Đoàn thanh tra ngày càng đi vào nền nếp, thực hiện đúng, đầy đủ trình tự, thủ tục, đảm bảo tiến độ, chất lượng và không để phát sinh các hành vi tiêu cực, những nhiễu trong quá trình thực hiện Đoàn thanh tra.

Trong giai đoạn báo cáo, Thanh tra Thành phố không phát sinh khiếu nại, tố cáo đối với công chức cơ quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao khi tiến hành hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, toàn ngành Thanh tra Thành phố có phát sinh 213 trường hợp cá nhân vi phạm hành chính và đã được xử lý 175/213 cá nhân (tập trung ở đội ngũ thanh tra xây dựng địa bàn)

5.2 Công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra

Kết luận thanh tra của Chánh Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp xem xét, xử lý các kiến nghị, yêu cầu, quyết định xử lý trong Kết luận thanh tra; sau đó ban hành Thông báo xử lý Kết luận thanh tra gửi đối tượng thanh tra; đồng thời giao Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thực hiện việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra theo quy định tại Thông tư số 01/2013/TT-TTCP  ngày 12 tháng 3 năm 2013 của Thanh tra Chính phủ quy định về hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra và Nghị định 33/2015/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2015 của Chính phủ quy định việc thực hiện kết luận thanh tra.

Kết luận thanh tra của Chánh Thanh tra Sở, Chánh Thanh tra Thành phố Thủ Đức và Chánh Thanh tra quận, huyện được Giám đốc Sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Thủ Đức, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện ra văn bản chỉ đạo, xử lý thực hiện và giao cho Thanh tra Sở, Thanh tra quận, huyện theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện (Chánh Thanh tra hoặc Phó Chánh Thanh tra và 01 chuyên viên/Thanh tra viên trực tiếp thực hiện). Kết luận thanh tra do Giám đốc Sở hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Thủ Đức hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Quận-huyện ban hành.

6. Hoạt động kiểm tra tính chính xác, tính hợp pháp của Kết luận thanh tra và hoạt động thanh tra lại

Trong niên độ báo cáo, chỉ có Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành mở Đoàn Thanh tra lại đối với Kết luận thanh tra số 536/KL-TTr ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Thanh tra Sở Tài Chính vào năm 2018. Kết luận thanh tra của sở-ngành, quận-huyện được các phòng chuyên môn, nghiệp vụ Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh định kỳ kiểm tra, rà soát theo địa bàn, lĩnh vực phụ trách nhưng chưa phát hiện có sai sót nghiêm trọng cần phải thực hiện thanh tra lại.

Do có hạn chế về số lượng và áp lực công việc khi đảm nhận nhiều vai trò nên hiện nay hoạt động kiểm tra tính chính xác, tính hợp pháp của Kết luận thanh tra và hoạt động thanh tra lại chưa được triển khai thực hiện đồng bộ và đạt hiệu quả.

II. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Qua giám sát, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố nhận thấy Ủy ban nhân dân Thành phố, Thanh tra các Sở, ngành, quận – huyện đã tích cực tổ chức triển khai tuyên truyền, quán triệt đầy đủ các nội dung của Luật Thanh tra; đồng thời quá trình tổ chức các cuộc thanh tra đã bám sát định hướng của Thanh tra Chính phủ, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố, thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những vấn đề bức xúc của cử tri thành phố quan tâm.

 Cơ quan thanh tra các ngành, các cấp trong quá trình thực hiện thanh tra đã chấp hành nghiêm túc, đúng trình tự thủ tục từ việc ban hành quyết định thanh tra, xây dựng kế hoạch thanh tra, yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo, công bố quyết định thanh tra, ban hành Kết luận thanh tra, công khai kết quả thanh tra theo đúng quy định. Việc đánh giá chứng cứ trong quá trình thanh tra ngày càng được chú trọng, đảm bảo tính khách quan, toàn diện, đúng quy định và phù hợp hoàn cảnh lịch sử nên việc xác định hành vi vi phạm ngày càng chính xác; chất lượng kết luận các Đoàn thanh tra được Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp đánh giá cao, được đa số đối tượng thanh tra đồng thuận; kiến nghị xử lý chính xác, đúng quy định; kết quả thanh tra đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các vi phạm pháp luật trên các lĩnh vực quản lý nhà nước; kịp thời kiến nghị với cấp có thẩm quyền và các cơ quan biện pháp khắc phục, phòng ngừa và xử lý các sai phạm, qua đó giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, nhân dân.

Bên cạnh đó, nội dung thanh tra chuyên ngành bám sát chỉ đạo của Bộ, ngành Trung ương, tập trung vào vấn đề trọng điểm mà dư luận xã hội đang quan tâm nên qua thanh tra, đã góp phần thiết thực trong nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của ngành phụ trách.

2. Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, tồn tại và hạn chế như sau:

- Luật Thanh tra quy định thời gian thanh tra, nhất là thời gian xây dựng báo cáo và kết luận thanh tra tối đa 30 ngày là chưa phù hợp với thực tế[5]. Theo quy định của Luật Thanh tra thì thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra do thanh tra huyện tiến hành không quá 30 ngày, ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 45 ngày. Tuy nhiên, đối với các đoàn thanh tra có nội dung phức tạp thì thời hạn thanh tra 30 ngày hoặc 45 ngày là không đủ. Nhiều cuộc thanh tra có tình tiết phức tạp liên quan đến nhiều năm, nhiều thời kỳ, nhiều đối tượng khác nhau, hoặc trong lĩnh vực quản lý tài chính, đất đai cần phải có thời gian để trích lục các tài liệu cũ hoặc liên quan đến chuyên môn sâu về kĩ thuật chuyên ngành, cần ý kiến và sự phối hợp của các cơ quan chuyên môn nên ảnh hưởng đến thời gian thực hiện.

- Luật Thanh tra quy định về thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra, thời hạn Báo cáo kết quả thanh tra và Kết luận thanh tra nhưng lại không quy định cụ thể theo ngày làm việc, chưa thống nhất với quy định về thời gian, thời giờ làm việc tại Bộ luật Lao động, gây khó khăn cho các Đoàn Thanh tra trong việc đảm bảo đúng thời hạn quy định trong việc xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, ban hành Kết luận thanh tra và việc công khai Kết luận thanh tra[6].

- Trình tự phê duyệt và ban hành Kế hoạch thanh tra hàng năm chưa đảm bảo thời hạn theo quy định, nguyên nhân chủ yếu là công tác phối hợp giữa các cơ quan thanh tra và đơn vị dự kiến thanh tra trong việc khảo sát, thu thập thông tin, tài liệu chưa được chặt chẽ, đồng bộ. Việc rà soát, xử lý chồng chéo đối tượng thanh tra cũng ảnh hưởng nhất định đến thời gian hoàn chỉnh dự thảo Kế hoạch thanh tra hàng năm và trình Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt.

-      Vẫn còn bất cập trong việc thực hiện Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp và quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố tại Quyết định số 33/QĐ-UBND ngày 06 tháng 9 năm 2016 về ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trên địa bàn Thành phố trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh sau đăng ký thành lập, nhất là trong các hoạt động thanh tra chuyên ngành khó xác định cụ thể đối tượng thanh tra (như an toàn thực phẩm, bảo vệ người tiêu dùng, thương mại điện tử, nông nghiệp...) hoặc chưa kịp thời phối hợp trong xác định cụ thể đối tượng thanh tra với các ngành đặc thù thuế, kiểm toán, phòng cháy, chữa cháy. Việc giao trách nhiệm cho cơ quan thanh tra làm đầu mối tổng hợp kế hoạch thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp ảnh hưởng nhất định đến thời gian xây dựng dự thảo, rà soát và ban hành Kế hoạch thanh tra theo quy định.

- Một số quyền hạn được giao khi tiến hành thanh tra không thực hiện được ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả công tác thanh tra (như quyền tạm đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; quyền yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa tài khoản đó để phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra tẩu tán tài sản; quyền kiến nghị tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra nhà nước hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra).

- Một số cuộc thanh tra có nội dung phức tạp, văn bản pháp lý chưa hướng dẫn thực hiện cụ thể, rõ ràng dẫn đến khó thực hiện hoặc thời gian thực hiện kéo dài; cuộc thanh tra được thành lập trên cơ sở đơn tố cáo của công dân thường là các vụ việc tố cáo phức tạp hoặc các vụ việc tố cáo nặc danh nhưng thông tin rõ ràng, nội dung quan trọng cần có thời gian để xác minh hoặc cuộc thanh tra theo chỉ đạo đột xuất chuyên đề diện rộng, có nội dung phức tạp, chuyên sâu về lĩnh vực kĩ thuật, xây dựng, y tế,… thường bị chậm trễ tiến độ so với quy định. Một số Đoàn Thanh tra chưa đảm bảo đúng thời hạn quy định trong việc xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, ban hành Kết luận thanh tra và việc công khai Kết luận thanh tra theo một trong các hình thức được quy định tại khoản 3 Điều 39 Luật Thanh tra năm 2010 và điểm b, khoản 3, Điều 46 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra.

- Việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các kết luận thanh tra chưa được thực hiện triệt để, hiệu quả không cao chưa có biện pháp chế tài đối với các trường hợp không thực hiện đầy đủ, thực hiện chậm trễ hoặc không thực hiện kiến nghị kết luận thanh tra không thực hiện niêm yết công khai kết luận thanh tra theo quy định; vẫn còn Kết luận thanh tra chưa được tổ chức thực hiện dứt điểm.

- Trong niên độ báo cáo giám sát, cơ quan thanh tra quận khó triển khai các cuộc thanh tra trên lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản do cơ quan kiểm toán nhà nước và cơ quan thanh tra chuyên ngành đã tiến hành thanh tra, kiểm tra hoặc đã xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra trong đó xác định hầu hết các đối tượng, các công trình xây dựng có liên quan.

- Sự phân định về phạm vi thanh tra giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành; giữa thanh tra chuyên ngành và kiểm tra thường xuyên theo chức năng quản lý nhà nước trong quá trình thực hiện còn gặp khó khăn. Điển hình là việc ban hành quyết định công nhận trên cơ sở kết quả bầu ban quản trị của hội nghị nhà chung cư nhưng luật không quy định cho cấp quận thẩm quyền được tiến hành các cuộc thanh tra đối với đối tượng này, dẫn đến còn tồn tại một số trường hợp công dân có đơn thư phản ánh, kiến nghị nhưng cấp quận chỉ tiến hành được các cuộc kiểm tra công tác quản lý, sử dụng nhà chung cư mà chưa đủ thẩm quyền tiến hành cuộc thanh tra nhằm làm rõ các sai phạm theo đơn thư của công dân.

Hàng năm, căn cứ hướng dẫn của thanh tra thành phố, thanh tra sở dự thảo kế hoạch thanh tra, kiểm tra của sở năm sau cùng với danh sách các đơn vị, doanh nghiệp cụ thể dự kiến thanh tra, kiểm tra để gửi thanh tra thành phố ra soát tránh trùng lắp; tuy nhiên, quy định này chỉ phù hợp với thanh tra hành chính mà không phù hợp với thanh tra chuyên ngành vì hoạt động thanh tra chuyên ngành phải được tiến hành thường xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ nhằm phát hiện, ngăn chặn xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời, do đặc thù các lĩnh vực chuyên ngành rất rộng và đa dạng nên việc xác định cụ thể đối tượng thanh tra ngay từ khi xây dựng kế hoạch công tác hàng năm khó đạt yêu cầu để tiến hành cuộc thanh tra, đặc biệt là thông tin, tài liệu về nội dung thanh tra chưa đầy đủ, dẫn đến việc xây dựng đề cương, kế hoạch tiến hành thanh tra chưa sát với tình hình thực tế, vì vậy khi tiến hành thanh tra gặp nhiều khó khăn trong quá trình xác minh, kết luận.

- Việc quy định công khai kết luận thanh tra chưa phù hợp với Đoàn thanh tra chuyên ngành vì việc công khai kết luận thanh tra đối với các hình thức theo Luật Thanh tra quy định có thể gây ra các rủi ro cho quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của đối tượng thanh tra.

- Chưa có quy định cụ thể về các biện pháp xử lý đối với trường hợp đối tượng thanh tra không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, chống đối, kéo dài việc cung cấp tài liệu cho các cơ quan thanh tra dẫn đến đoàn thanh tra không đảm bảo đúng thời hạn thanh tra theo quy định hoặc đối tượng thanh tra không thực hiện kết luận, kiến nghị của các cơ quan thanh tra.

- Việc áp dụng trình tự, thủ tục thanh tra chuyên ngành theo trình tự, thủ tục luật thanh tra quy định là chưa phù hợp với tình hình thực tế, cụ thể: quy định về việc gửi quyết định thanh tra đến đối tượng thanh tra trước khi tiến hành thanh tra tại Khoản 5, Điều 36 Luật Thanh tra có thể khiến đối tượng thanh tra xóa dấu vết vi phạm, gây khó khăn cho hoạt động thanh tra. Một cuộc thanh tra chuyên ngành mang tính chất như một cuộc kiểm tra; thời gian tiến hành một số cuộc thanh tra chuyên ngành diễn ra nhanh, đối với nhiều lĩnh vực thì thời gian thanh tra tại đơn vị thường rất ngắn (có thể chỉ là 01 buổi) nhưng phải áp dụng thực tiễn theo trình tự, thủ tục Luật Thanh tra, mất nhiều thời gian và phải thực hiện nhiều thủ tục dẫn đến hiệu suất công việc không cao. Đối với hoạt động kiểm tra thì chưa có quy định cụ thể và chi tiết về trình thực hiện.

- Theo quy định của Luật Thanh tra thì các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành được quyền xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, Luật Thanh tra 2010 chỉ quy định trong quá trình thanh tra, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, công chức thanh tra chuyên ngành được xử phạt vi phạm hành chính còn việc xử phạt thế nào lại do pháp luật về xử lý vi phạm hành chính quy định. Điều này làm cho các cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành nhiều khi lúng túng, nhất là khi pháp luật về xử lý vi phạm hành chính chưa quy định cụ thể nội dung này.

- Tại Điều 37 Luật Thanh tra quy định các hình thức thanh tra theo Kế hoạch thanh tra thường xuyên, thanh tra độc lập và thanh tra đột xuất. Tuy nhiên, Nghị định 07/2012/NĐ-CP chỉ quy định hình thức thanh tra chuyên ngành theo kế hoạch và thanh tra chuyên ngành đột suất. Việc thực hiện thanh tra chuyên ngành thường xuyên hiện vẫn chưa có văn bản hướng dẫn nên khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.

- Khi tiến hành thanh tra trên diện rộng, vì nội dung, phạm vi, tính chất thanh tra cơ bản giống nhau, vì thế việc ra quyết định thanh tra thường là quyết định thanh tra chung cho nhiều đối tượng và khi kết luận thanh tra thì kết luận thanh tra chung. Tuy nhiên, theo pháp luật thanh tra hiện hành thì nội dung này cũng chưa được quy định, hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc thực hiện ở nhiều nơi khác nhau làm giảm hiệu quả của công tác thanh tra chuyên ngành.

- Kết thúc các cuộc thanh tra, Đoàn thanh tra xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo Kết luận Thanh tra đảm bảo nội dung, tiến độ, chất lượng và thời gian quy định tại Điều 49, Điều 50 Luật Thanh tra. Tuy nhiên, đối với một số Đoàn Thanh tra chuyên ngành phức tạp, sau khi kết thúc thanh tra, đoàn thanh tra phải có nhiều thời gian để đối chiếu quy định, xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, báo cáo người ra quyết định thanh tra, xây dựng dự thảo kết luận thanh tra, lấy ý kiến các cơ quan chức năng, ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra để hoàn thiện dự thảo kết luận thanh tra. Người ký kết luận thanh tra cũng cần có thời gian để nghiên cứu, cân nhắc các khía cạnh khác nhau, thời hạn 30 ngày là chưa phù hợp.

- Hiện nay, lực lượng cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phải kiêm luôn công tác thanh tra, kiểm tra nên phải nghiên cứu nhiều văn bản, nhiều lĩnh vực nên việc tập trung có phần hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và trình độ, năng lực, bản lĩnh, ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra. Bên cạnh đó, đội ngũ thanh tra sở - ngành, quận - huyện thường xuyên biến động.

3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc, tồn tại và hạn chế:

3.1. Nguyên nhân từ quy định của Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành:

- Hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra còn chưa đầy đủ, chưa cụ thể. Đến nay, nhiều quy định về quyền thanh tra còn mang tính nguyên tắc; một số quyền còn thiếu trình tự, thủ tục thực hiện. Chẳng hạn như thiếu quy định nghiệp vụ về phương pháp xác định hành vi vi phạm trong hoạt động thanh tra. Đặc biệt, pháp luật về thanh tra còn thiếu các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm, do đó chưa phát huy được một cách hiệu quả các quyền trong hoạt động thanh tra.

- Các quy định pháp luật về thanh tra chuyên ngành nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, có sự chồng chéo giữa pháp luật về thanh tra và pháp luật về chuyên ngành (phần lớn các luật, bộ luật chuyên ngành đều có quy định về thanh tra chuyên ngành); mục đích, khái niệm, nội dung về thanh tra chuyên ngành không phù hợp với tính chất quản lý nhà nước chuyên ngành; nhiệm vụ, quyền hạn chồng chéo giữa thanh tra hành chính với thanh tra chuyên ngành, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cơ quan thanh tra của ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành; tổ chức thanh tra được thiết lập chưa phù hợp; quy định, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và các biện pháp xử lý cứng nhắc, chưa được cập nhật, không phù hợp với tính chất, yêu cầu của quản lý nhà nước chuyên ngành…

- Pháp luật về thanh tra cũng chưa quy định, hướng dẫn đối với thanh tra chuyên đề, thanh tra diện rộng nên trong thực hiện thi hành còn gặp phải khó khăn, vướng mắc.

- Pháp luật về thanh tra chỉ quy định hoạt động thanh tra hành chính mới thành lập đoàn thanh tra liên ngành, trong khi thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành của các ngành, lĩnh vực thường xuyên được thành lập đoàn liên ngành để cùng thực hiện chức năng thanh tra đối với cùng đối tượng thanh tra.

- Luật thanh tra chưa có quy định, hướng dẫn về hoạt động thanh tra liên ngành. Hoạt động thanh tra liên ngành được đề cập, tại khoản 3, Điều 19; khoản 4, Điều 20 và khoản 1, Điều 21 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra. Tuy nhiên, các quy định này còn rất mờ nhạt, chưa quy định cụ thể về vai trò, trách nhiệm của thành viên của các cơ quan được cử tham gia đoàn thanh tra liên ngành. Quá trình kết luận về nội dung liên quan đến ngành, lĩnh vực, xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra chưa có quy định bắt buộc phải lấy ý kiến tham gia của các cơ quan cử thành viên. Do vậy, vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực tham gia đoàn liên ngành chưa phát huy đúng mức, dẫn đến nhiều trường hợp, kết quả cuộc thanh tra liên ngành không có nhiều sự khác biệt với cuộc thanh tra thông thường.

- Thời hạn xây dựng, phê duyệt Kế hoạch thanh tra quy định tại Điều 36 Luật Thanh tra năm 2010 không phù hợp (khoảng thời gian 15 ngày là không đủ thời gian, điều kiện để việc thu thập thông tin, tài liệu, nắm tình hình khảo sát để xây dựng kế hoạch thanh tra và trình cấp thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời, việc khảo sát phụ thuộc vào công tác phối hợp và tiến độ phản hồi, cung cấp thông tin, tài liệu, hồ sơ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị khảo sát, dự kiến thanh tra)

- Thiếu quy định trong việc xử lý chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra; thiếu quy định về các biện pháp chế tài đối với những hành vi cản trở cố tình hoặc có lý do khách quan (giải thể, phá sản, doanh nghiệp đã được chuyển thể, chuyển đổi hình thức sở hữu... Việc phối hợp thực hiện báo cáo, cung cấp hồ sơ tài liệu và giải trình liên quan trách nhiệm trong từng nội dung thanh tra đôi lúc còn chậm....) của đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, gây ảnh hưởng đến hiệu quả, tiến độ hoạt động của Đoàn thanh tra.

- Thiếu quy định và hướng dẫn về các biện pháp cưỡng chế trong xử lý sau thanh tra; việc phong tỏa tài sản của đối tượng thanh tra có dấu hiệu tội phạm tuy đã có hướng dẫn nhưng khó thực hiện trong thực tế; chưa có quy định pháp luật về trình tự, thẩm quyền xử lý, giải quyết đối với những khó khăn, vướng mắc trong quá trình đôn đốc thực hiện Kết luận thanh tra.

3.2. Nguyên nhân từ việc tổ chức triển khai thi hành Luật Thanh tra:

- Việc ban hành các kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ và một số cơ quan Trung ương cũng chưa đảm bảo thời hạn theo quy định và chỉ dự kiến địa phương sẽ tiến hành thanh tra (đơn vị cụ thể sẽ tiến hành thanh tra được xác định trong quá trình khảo sát cụ thể sau đó). Do đó, các cơ quan thanh tra địa phương rất bị động, không có cơ sở để đối chiếu, xử lý việc trùng lắp thanh tra ngay từ khâu lập Kế hoạch thanh tra hàng năm. Trong khi đó, Chánh Thanh tra cấp tỉnh chỉ chủ trì xử lý chồng chéo trong xây dựng kế hoạch thanh tra của các sở, ngành, quận, huyện thuộc phạm vi địa phương. Còn đối với Thanh tra bộ, ngành thì rất khó thực hiện vì không có cơ chế phối hợp trong định hướng và xây dựng kế hoạch thanh tra hàng năm.

- Chưa thống nhất trong cách hiểu về cơ sở xử lý chồng chéo là chỉ cần một yếu tố trùng hay phải đảm bảo trùng cả 04 yếu tố “phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra”.

- Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp tuy đã có nhiều nỗ lực nhưng vẫn còn Kết luận thanh tra được chỉ đạo xử lý chậm so với quy định.

- Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của một số tổ chức, cá nhân bị xử lý còn hạn chế. Có những trường hợp chưa thực sự quan tâm đến việc triển khai, thực hiện và báo cáo kết quả thực hiện cho Thanh tra Thành phố (mặc dù thường xuyên đôn đốc, mời làm việc) hoặc cố ý kéo dài, né tránh việc thực hiện kết luận thanh tra; Quá trình quản lý hồ sơ, tài liệu các đơn vị là đối tượng thanh tra chưa chặt chẽ dẫn đến việc chậm cung cấp tài liệu hoặc cung cấp tài liệu không đầy đủ, chậm giải trình các nội dung đoàn thanh tra yêu cầu đã làm ảnh hưởng đến thời gian thanh tra.

- Tiến độ thực hiện của một số đoàn thanh tra còn chậm, vượt quá thời gian so với quy định, không đảm bảo về thời gian xây dựng báo cáo kết quả thanh tra sau khi kết thúc thanh tra tại nơi được thanh tra. Công tác phối hợp trong xử lý công việc qua văn bản đến - văn bản đi còn một vài đơn vị chưa kịp thời. Phần mềm quản lý công việc chưa kết nối hệ thống với nhau để có sự liên kết giữa các phần mềm nên trong quá trình thực hiện dữ liệu chưa được đồng bộ;

- Không thể dự liệu trước về tình hình hoạt động của đối tượng thanh tra đặc thù (cá nhân tổ chức có sử dụng lao động là đối tượng thanh tra đặc thù trong lĩnh vực lao động, tuy nhiên, do tình hình dịch bệnh hoặc do hiệu quả kinh doanh, đối tượng giải thể, phá sản, tạm dừng kinh doanh, dẫn đến thay đổi đối tượng thanh tra mà luật không thể dữ liệu trước);

- Nhiều cuộc thanh tra có tình tiết phức tạp cần phải thẩm tra, xác minh hoặc liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt là những vụ việc trong lĩnh vực đất đai cần phải có thời gian để trích lục các tài liệu cũ hoặc có những cuộc thanh tra có nội dung liên quan đến chuyên môn sâu về kĩ thuật chuyên ngành nên cần tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn (đo đạc bản đồ, nghĩa vụ tài chính, đền bù giải phóng mặt bằng,..).

- Khi tiến hành thanh tra chưa tiên lượng được phần việc và tính phức tạp của nó nên việc chủ động thực hiện còn hạn chế. Việc duy trì chế độ thông tin và xử lý vấn đề phát sinh giữa thành viên đoàn thanh tra (gồm nhiều đại diện các đơn vị có liên quan) trong các khâu lập biên bản, Báo cáo kết quả thanh tra của thành viên đoàn thanh tra chưa được sâu sắc, chưa được thảo luận kỹ nên chưa phát hiện kịp thời những vướng mắc để xử lý ngay trong khi còn thanh tra tại đơn vị.

III. ĐỀ XUẤT - KIẾN NGHỊ

1. Đối với Trung ương:

1.1. Kiến nghị Quốc hội sớm xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra hiện hành và các văn bản hướng dẫn có liên quan nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, cụ thể như sau:

- Đề nghị quy định cụ thể mục đích, yêu cầu, trình tự, thủ tục thực hiện ... để phân biệt rõ hoạt động thanh tra hành chính với thanh tra chuyên ngành và kiểm tra. Đồng thời, cần có sự đánh giá, tổng kết về hiệu quả hoạt động của các hình thức thanh tra chuyên ngành tại các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành theo Nghị định số 07/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ để làm cơ sở thực tiễn trong việc sửa đổi Luật Thanh tra, đảm bảo khả thi, hiệu quả, thực sự là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và kiểm tra.

- Cần hướng dẫn cụ thể hơn về thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, cần phân biệt giữa đối tượng, nội dung giữa đoàn thanh tra hành chính tiến hành thanh tra kinh tế-xã hội và đoàn thanh tra việc chấp hành pháp luật.

- Xác định rõ chức năng của Thanh tra sở là thanh tra hành chính hay thanh tra chuyên ngành hay cả hai để đảm bảo sự thống nhất trong thực hiện các quy định khác có liên quan.

- Hiện nay, hoạt động thanh tra vẫn còn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh với Thanh tra sở, ngành, Thanh tra quận - huyện. Trên thực tế, có nhiều tổ chức, doanh nghiệp vừa chịu sự kiểm tra, thanh tra của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ quản lý chuyên ngành, vừa chịu sự kiểm tra, thanh tra chuyên ngành của các Sở và Thanh tra quận - huyện. Do đó cần phân định rõ phạm vi, quyền hạn của cơ quan thanh tra các cấp, tránh sự trùng lắp về đối tượng thanh tra không để ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh.

- Bổ sung nội dung về công tác “Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thanh tra tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng” cho tất cả cơ quan thanh tra phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động trong Luật Thanh tra.

- Đối với từng công đoạn thực hiện cuộc thanh tra, cần quy định rõ thời hạn để đảm bảo thực hiện thống nhất, tránh kéo dài ở những giai đoạn chưa quy định cụ thể thời hạn và đây cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân (như thời hạn xem xét báo cáo kết quả thanh tra, thời hạn thẩm định dự thảo kết luận thanh tra, thời hạn giải trình...). Đồng thời cần có đầy đủ biểu mẫu kèm theo để hoạt động thanh tra thống nhất, chuyên nghiệp.

- Bổ sung quy định về tiêu chí xác định mức phức tạp khi gia hạn thanh tra, thời hiệu gia hạn tối đa; quy định rõ về trường hợp bất khả kháng trong hoạt động thanh tra.

- Luật Thanh tra quy định thời gian xây dựng Báo cáo kết quả thanh tra và Kết luận thanh tra tối đa 30 ngày áp dụng cho tất cả các cơ quan thanh tra, trong khi đó, thời hạn tiến hành thanh tra ở mỗi cấp thanh tra là khác nhau. Quy định này chưa phù hợp với thực tế, nhất là các cuộc thanh tra có quy mô lớn và tính chất phức tạp, thường phải xin ý kiến của các các cơ quan chuyên môn, xin ý kiến của Thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước. Kiến nghị xem xét tăng thời gian xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và kết luận thanh tra đối với cấp tỉnh, thành;

- Tại điểm c, khoản 1, Điều 45 Luật Thanh tra 2010 quy định thời hạn thanh tra hành chính đối với thanh tra cấp huyện là 30 ngày, luật không cho phép thanh tra cấp huyện kéo dài thời gian thanh tra. Nhằm giảm áp lực về thời gian, tiến độ và đảm bảo kết luận thanh tra ban hành được toàn diện, chính xác, có chất lượng và mang tính khả thi trên thực tế, kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật thanh tra theo hướng cho phép kéo dài thời gian thanh tra từ 01 đến 02 lần, mỗi lần 15 ngày làm việc.

- Theo quy định tại khoản 1, Điều 40 Luật Thanh tra 2010 quy định “trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày kết luận thanh tra hoặc nhận được kết luận thanh tra, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cung cấp… có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra”. Tuy nhiên, chưa có văn bản quy định rõ về thời hạn để đối tượng thanh tra, các tổ chức cá nhân có liên quan thực hiện nội dung kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra, đề nghị cần quy định rõ vấn đề này.

1.2. Cần bổ sung quy định và hướng dẫn cụ thể kinh phí thực hiện một số nghiệp vụ quan trọng trong công tác thanh tra như trưng cầu giám định; kinh phí đi xác minh ở nước ngoài; kinh phí đo vẽ nhà, đất; kinh phí thẩm định về giá thẩm định quyền sử dụng đất, tài sản, vật kiến trúc…

1.3. Hoàn thiện quy định về thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra, trong đó bổ sung các biện pháp bảo đảm thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt về cho nhà nước; Bổ sung quy định về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị có liên quan khi thực hiện kết luận thanh tra; quy định cụ thể về thời gian thực hiện các kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra và biện pháp áp dụng hình thức chế tài để xử lý đối với hành vi không thực hiện, thực hiện không nghiêm túc, chậm thực hiện kết luận thanh tra, kiến nghị thanh tra nhất là việc thu hồi tài sản đã bị thất thoát do hành vi vi phạm pháp luật và xử lý người có hành vi vi phạm; quy định trách nhiệm của cơ quan thanh tra trong việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra; quy định chi tiết về công khai kết quả xử lý kết quả đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra; cần ban hành thông tư thống nhất việc trong quá trình thanh tra, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xử lý kịp thời.

- Bổ sung quy định về thanh tra liên ngành như căn cứ thành lập đoàn, thẩm quyền ban hành quyết định, thanh tra liên ngành, quan hệ công tác, quy chế báo cáo kết quả thanh tra kết luận thanh tra liên ngành… để làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra liên ngành.

- Quy định cụ thể phương thức thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra, đặc biệt đối với quyền trưng cầu giám định, quyền yêu cầu cung cấp thông tin, quyền phong tỏa tài khoản…

1.4. Theo quy định của Luật Thanh tra thì người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng phong toả tài khoản. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của Luật Thanh tra trong việc yêu cầu tổ chức tín dụng phong toà tài khoản của đối tượng thanh tra là rất khó khăn và chưa có hướng dẫn cụ thể. Đề nghị cần hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.Cần có quy định cụ thể trong việc yêu cầu các ngân hàng cung cấp số tài khoản ngân hàng (có xác nhận số dư) của các đơn vị vi phạm cho các cơ quan ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính, làm cơ sở ban hành các quyết định cưỡng chế thực hiện các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả.

1.5. Điều 37 Luật Thanh tra quy định các hình thức thanh tra: thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên, thanh tra độc lập và thanh tra đột xuất. Tuy nhiên Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012 quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành chỉ quy định thanh tra chuyên ngành theo kế hoạch và thanh tra chuyên ngành đột xuất. Cần có hướng dẫn cụ thể về hình thức thanh tra thường xuyên trong hoạt động thanh tra chuyên ngành; Quy định căn cứ ban hành quyết định thanh tra đột xuất theo hướng quy định cụ thể về tính chất, mức độ vi phạm pháp luật làm căn cứ tiến hành thanh tra.

1.6. Cần có mô hình thống nhất về Ban Tiếp công dân các cấp.

2. Đối với Thành phố:

2.1. Kiến nghị Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ đạo ngành thanh tra Thành phố, các sở, ngành hữu quan tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, quán triệt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác thanh tra, khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng chống tham nhũng.

2.2. Kiến nghị Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ đạo tiếp tục đổi mới, không ngừng nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, chú trọng bám sát, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố trong thực hiện công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và việc thực thi chính sách pháp luật ở các lĩnh vực trên địa bàn Thành phố. Hoạt động thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, rõ ràng, cụ thể, tăng cường các cuộc thanh tra chuyên đề, thanh tra đột xuất, tập trung vào các lĩnh vực bức xúc được cử tri quan tâm như xây dựng, quản lý sử dụng nhà đất thuộc sở hữu Nhà nước, quản lý đất đai, đầu tư các dự án sử dụng vốn từ ngân sách Nhà nước…

2.3. Kiến nghị Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ đạo tăng cường phối hợp trong công tác thanh tra, tránh trùng lắp; nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan Khối Nội chính để kịp thời xử lý các sai phạm được phát hiện trong quá trình thanh tra và trong tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án tham nhũng. Thường xuyên rà soát, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra, quá trình khắc phục vi phạm, xử lý sau thanh tra.

2.4. Kiến nghị Ủy ban nhân dân Thành phố quan tâm cng cố xây dựng lực lượng ngành thanh tra, công tác quy hoạch, bồi dưỡng lý luận chính trị đối với đội ngũ thanh tra viên; thường xuyên tổ chức tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật về thanh tra cho cán bộ, công chức ngành thanh tra. Thực hiện việc định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với đội ngũ thanh tra viên theo quy định.

 2.5. Thanh tra Thành phố tăng cường công tác kiểm tra các cơ quan thanh tra trên địa bàn Thành phố thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về công tác tổ chức - cán bộ để phòng, chống tham nhũng, đẩy mạnh việc công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật. Phối hợp xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách động viên, khuyến khích và bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; quan tâm công tác bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho lực lượng thực hiện công tác thanh tra trên địa bàn Thành phố.

2.6. Tại buổi làm việc với Sở Xây dựng, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố ghi nhận kiến nghị của Sở Xây dựng, đề nghị Ủy ban nhân dân Thành phố xem xét giải quyết như sau:      

+ Kiến nghị Ủy ban nhân dân Thành phố quan tâm chỉ đạo các cơ quan có liên quan sớm thực hiện các nội dung liên quan đến Đề án thí điểm thành lập Đội Quản lý trật tự xây dựng đô thị thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức, các quận, huyện tại Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Kiến nghị giữ nguyên số lượng nhân sự Phó Chánh Thanh tra tại Thanh tra Sở Xây dựng như hiện nay là 04 Phó Chánh Thanh tra.

 

Trên đây là báo cáo kết quả giám sát về tình hình thực hiện Luật Thanh tra 2010 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ 01/01/2018 – 30/6/2021, kính báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội./.



[1] Cụ thể như xác định năm 2018 là thời điểm diễn ra việc kiểm điểm, đánh giá giữa nhiệm kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Khóa X nên 1/3 các Đoàn thanh tra theo kế hoạch năm 2018 đều gắn kết nội dung thanh tra trách nhiệm thủ trưởng đơn vị được giao nhiệm vụ chủ trì trong thực hiện 07 chương trình đột phá theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Khóa X nhiệm kỳ 2015-2020; năm 2019 xuất phát từ những tồn tại của sở-ngành, quận - huyện trong năm 2018, triển khai thanh tra chuyên đề diện rộng về thực hiện pháp luật tiếp công dân của người đứng đầu  và tập trung vào thanh tra trách nhiệm của Người đứng đầu trong việc chấp hành chính sách pháp luật trên các lĩnh vực thường xảy ra sai phạm và phát sinh nhiều đơn thư như cấp phép xây dựng, xử phạt vi phạm hành chính; năm 2020 và năm 2021 để phục vụ tốt nhất cho Đại hội Đảng các cấp, kế hoạch thanh tra định kỳ được cân đổi phù hợp về số lượng đoàn để tập trung các Đoàn thanh tra độ xuất với nội dung phức tạp và được dư luận quan tâm.

[2] Năm 2018, qua rà soát, có sự trùng lp v đối tượng thanh tra, kim tra gia 10 s và 08 qun, huyn với tổng số 192 doanh nghiệp; Năm 2019, qua rà soát, có sự trùng lp v đối tượng thanh tra, kim tra gia 08 s và 15 qun, huyn với tổng số 437 doanh nghiệp; Năm 2020, qua rà soát, có sự trùng lắp về đối tượng thanh tra, kiểm tra giữa 10 sở ngành và 24 quận, huyện với tổng số 1342 doanh nghiệp. Năm 2021, qua rà soát, có sự trùng lắp về đối tượng thanh tra, kiểm tra giữa 09 sở ngành và 24 quận, huyện với tổng số 1050 doanh nghiệp

[3] Kết quả: Số vụ đã khởi tố: 01 vụ; Số vụ đang xác minh: 28 vụ và 16 đối tượng; Số vụ không khởi tố: 06 vụ và 6 đối tượng; số vụ tạm đình chỉ: 03 vụ; Số vụ hoàn hồ sơ do chưa đủ cơ sở để xác định dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự: 01 vụ; có thông báo tiến độ: 01 vụ; chưa nhận được thông tin của cơ quan cảnh sát điều tra: 01 vụ và 02 đối tượng.

[4] Số vụ đã khởi tố: 01 vụ; số vụ đang xác minh: 09 vụ; số vụ không khởi tố: 01 vụ; số vụ tạm đình chỉ: 03 vụ; số vụ hoàn hồ sơ do chưa đủ cơ sở để xác định dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự: 01 vụ; có thông báo tiến độ: 01 vụ; chưa nhận được thông tin của cơ quan cảnh sát điều tra: 02 đối tượng);

[5] Theo điểm c, khoản 1, Điều 45 của Luật Thanh tra 2010 quy định thời hạn. của thanh tra hành chính “c) cuộc thanh tra do Thanh tra huyện, Thanh tra sở tiến hành không quá 30 ngày; ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 45 ngày”.

Khoản 1, Điều 32, Thông tư 05/2014/TT-TTCP ngày 16 tháng 10 năm 2014 quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra quy định “Chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc tiến hành thanh tra tại nơi được thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản với Trưởng đoàn thanh tra”.

Khoản 1, Điều 49 Luật Thanh tra 2010 quy định “Chậm nhất là 15 ngày, cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra gửi tới người ra quyết định thanh tra”.

Khoản 1, Điều 50 Luật Thanh tra 2010 quy định “Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra hành chính và gửi tới Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cung cấp, cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên, đối tượng thanh tra”.

Thực tế, sau khi kết thúc cuộc thanh tra trực tiếp, đoàn thanh tra phải có thật nhiều thời gian để tổng hợp số liệu, đối chiếu quy định, xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, báo cáo người ra quyết định thanh tra, xây dựng dự thảo kết luận, lấy ý kiến của cơ quan chức năng, ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra để hoàn thiện dự thảo kết luận thanh tra (05 ngày cho thanh viên Đoàn Thanh tra và 10 ngày cho. Trưởng Đoàn thanh tra báo cáo kết quả thanh tra). Người ký kết luận thanh tra (15 ngày) cũng cần có thời gian để cân nhắc các khía cạnh khác nhau của dự thảo như tính đặc thù trong công tác quản lý nhà nước của địa phương; tính khả thi của việc đề suất sử lý, kiến nghị. Mặt khác, một số nội dung thanh tra có nhiều tình tiết, nhiều vấn đề phức tạp phải mất nhiều thời gian để kiểm tra, đối chiếu các quy định pháp luật trước khi có kết luận chính xác, rõ ràng nhân lực thanh tra không quy định việc kéo dài thời gian thanh tra đối với các Đoàn thanh tra cấp quận (theo điểm c, khoản 1, Điều 45 Luật Thanh tra năm 2010).

 

[6] Theo một trong các hình thức được quy định tại khoản 3 Điều 39 Luật Thanh tra năm 2010 và điểm b, khoản 3, Điều 46 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra.

 

CÁC TIN BÀI KHÁC:
thông tin cần biết
Chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2021 của Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh



Thông cáo Báo chí về kết quả kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV



Báo cáo Tổng kết nhiệm kỳ Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh khóa XIV (2016 - 2021)



Báo cáo hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh năm 2020



Nghị quyết Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020


tin nổi bật
Số lượt truy cập
07812115
Liên kết website




                                             Trụ sở Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh

                                             2Bis Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP.HCM
                                             ĐT: 028.38295353 - Fax: 028.38291574
                                             Email:
vpddbqh@tphcm.gov.vn - hcm@qh.gov.vn