Để chuẩn bị nội dung cho kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XIV, ngày 16/9/2020, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV.
Dưới đây là tổng hợp các ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật:
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1- Về sự cần thiết sửa đổi Luật
Nhiều ý kiến nhất trí với việc sửa đổi Luật Phòng, chống ma túy hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy, công tác cai nghiện, tạo môi trường lành mạnh, an toàn góp phần phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
2- Về bố cục dự thảo Luật
2.1- Có ý kiến cho rằng nội dung dự thảo Luật có nhiều quy định liên quan đến trách nhiệm của cá nhân, gia đình trong phòng, chống ma túy như: trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 25); trách nhiệm gia đình của người sử dụng trái phép chất ma túy (khoản 1 Điều 26); trách nhiệm của người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy (Điều 30); đóng góp kinh phí cai nghiện ma túy tự nguyện (khoản 3 Điều 46) nhưng thiếu quy định về chế tài đối với việc không thực hiện các trách nhiệm trên. Đề nghị nghiên cứu bổ sung các biện pháp chế tài vào dự thảo Luật để bảo đảm hiệu quả trong thực thi khi Luật có hiệu lực.
2.2 - Có ý kiến cho rằng cần sớm ban hành danh mục các chất thú y có chứa các chất ma túy, tiền chất để thống nhất các quy định tại khoản 8 Điều 3, Điều 16 và Điều 59 dự thảo Luật nhằm tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan thực hiện nhiệm vụ trong các hoạt động xuất, nhập khẩu, quá cảnh liên quan đến thuốc thú y.
2.3- Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể về việc người nghiện khi chuyển địa bàn cư trú cần thông báo với Công an và Ủy ban nhân dân cấp xã về việc chuyển đổi nơi cư trú, khi chuyển đổi nơi cư trú cũng đồng thời chuyển hồ sơ đang được quản lý cai nghiện tại cộng đồng hoặc quản lý sau cai nghiện để không hạn chế quyền tự do cư trú của công dân mà vẫn đảm bảo việc quản lý đối với các đối tượng này.
II- GÓP Ý CỤ THỂ
1- Về giải thích từ ngữ (Điều 3)
Một số ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 3 giải thích thế nào là: cư trú ổn định; ma túy;
2- Về những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 4)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định hành vi phân biệt đối xử đối với các đối tượng là người nghiện ma túy thực hiện cai nghiện tại gia đình, cộng đồng và người sau cai nghiện của cộng đồng dân cư, những người xung quanh vào Điều 4 dự thảo Luật.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 4 quy định “Lừa người khác sử dụng ma túy, chất gây nghiện” nhằm đảm bảo tính răn đe, vì đây là một thực tế đang tồn tại đáng báo động trong xã hội. Người bị xúi giục, rủ rê, dụ dỗ, lôi kéo trong một số trường hợp do bị lừa không nhận thức được đó là chất ma túy, chất gây nghiện, dẫn đến việc sử dụng trái phép chất ma túy và có khả năng bị nghiện.
- Khoản 1: có ý kiến đề nghị sửa khoản 1 như sau“Trồng cây có chứa chất ma túy trái phép”. Vì trong một số trường hợp việc trồng cây có chứa chất ma túy để phục vụ cho nghiên cứu khoa học hợp pháp. Bên cạnh đó, cũng cần quy định cơ quan có thẩm quyền trong việc lập kế hoạch, tờ trình, đề nghị cấp có thẩm quyền phê duyệt để trồng một số lượng cây nhất định có chứa chất ma túy phục vụ cho nghiên cứu khoa học.
- Khoản 5: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trao đổi, tiếp thị” vào sau cụm từ “mua bán” trong nội dung khoản 5. Khoản 5 viết lại như sau “Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, trao đổi, tiếp thị phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất, sử dụng trái phép chất ma túy”. Vì thực tiễn đã xảy ra trường hợp trao đổi, tiếp thị phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất, sử dụng trái phép chất ma túy.
- Khoản 3: có ý kiến đề nghị bổ sung “hoặc thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất” vào nội dung khoản 3 Điều 4 để quy định được chặt chẽ hơn. Khoản 3 viết lại như sau “Giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát chất ma túy, tiền chất; cho phép người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần hoặc thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất trái quy định của pháp luật”.
- Khoản 4: có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại khoản 4 như sau: “Sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; xúi giục, cưỡng bức, rủ rê, dụ dỗ, lôi kéo, chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất”.
2- Về trách nhiệm của cá nhân, gia đình (Điều 6)
- Khoản 1: có ý kiến đề nghị thay cụm từ “giáo dục thành viên trong gia đình”bằng “tuyên truyền thành viên trong gia đình”. Khoản 1 viết lại như sau: “Thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy; tuyên truyền thành viên trong gia đình, thân nhân về tác hại của ma túy và thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy;…”
3- Về quản lý hoạt động vận chuyển chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất (Điều 14)
- Khoản 1: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “hư hỏng” vào sau “thất thoát” vì bên cạnh việc gây thất thoát thì còn khả năng gây hư hỏng và như vậy sẽ đảm bảo công tác bảo quản lý hiệu quả hơn. Khoản 1 viết lại như sau “Cá nhân, cơ quan, tổ chức được vận chuyển chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất phải đóng gói, niêm phong theo quy định của cơ quan có thẩm quyền, chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng hàng của mình và có biện pháp bảo vệ an toàn, không để bị thất thoát, hư hỏng”.
4- Về xác định người sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 23)
- Khoản 1: có ý kiến đề nghị cân nhắc lại quy định “chưa xác định được tình trạng nghiện” như vậy thì cơ quan có thẩm quyền phải lập hồ sơ để quản lý thêm một loại đối tượng nữa, gây mất thời gian và ảnh hưởng đến quá trình giải quyết. Nếu chưa xác định được tình trạng nghiện thì nên quy định theo hướng là đưa vào cơ sở để quản lý, trong quá trình quản lý chúng ta sẽ xác định tình trạng nghiện ma túy của đối tượng, để có cơ sở đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc cai nghiện tại gia đình, cộng động.
- Khoản 2: có ý kiến cho rằng nếu quy định như khoản 2 Điều 23 là chưa phù hợp vì không phải cơ quan Y tế hay cơ quan Công an nào cũng đủ điều kiện để thực hiện xét nghiệm ma túy và dễ dẫn đến tình trạng test nhanh không phản ánh đúng kết quả, không chính xác. Ý kiến này đề nghị bổ sung cơ quan có thẩm quyền xét nghiệm ma túy là “cơ quan Quân y, Quân dân y” để phù hợp với đặc thù quân đội. Khoản 2 viết lại như sau “Cơ quan có thẩm quyền xét nghiệm ma túy là các cơ quan Y tế, cơ quan Công an, cơ quan Quân y, Quân dân y đủ điều kiện xét nghiệm theo quy định của pháp luật”.
- Có ý kiến cho rằng để tạo điều kiện cho các lực lượng chức năng có cơ sở pháp lý thực hiện, đề nghị bổ sung vào Điều 23 quy định như sau“Người không chấp hành yêu cầu xét nghiệm chất ma túy của người thi hành công vụ thì cơ quan chức năng có quyền cưỡng chế thực hiện xét nghiệm”.
5- Về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 24)
- Có ý kiến cho rằng việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy cần dựa trên cơ sở là bản chất của người sử dụng ma túy có nghiện hay không. Vì trong thực tế, khi phát hiện người sử dụng trái phép chất ma túy, theo quy định hiện hành, cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ phải gửi đi xác minh tình trạng cư trú, có nhiều trường hợp không nhận được trả lời, mà thời hạn giải quyết hiện nay là 90 ngày, như vậy mất thời gian và việc quản lý không đạt hiệu quả. Vì vậy, đề nghị khi phát hiện người sử dụng trái phép chất ma túy, có kết quả xét nghiệm dương tính nên lập hồ sơ để đưa ra Tòa án giải quyết, sau đó đưa vào cơ sở cai nghiện để cai nghiện. Tại đây, mới phân loại ra là có nơi cư trú, thì sau cai nghiện đưa về địa phương quản lý, không có nơi cư trú, đưa vào các cơ sở bảo trợ xã hội. Như vậy, việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy đảm bảo hiệu quả hơn, đặc biệt đối với các đối tượng lang thang, không có nơi cư trú ổn định.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định là các cơ sở cai nghiện công lập hay cai nghiện tư nhân phải đưa vào chương trình tư vấn tâm lý cho người nghiện và đào tạo nghề nghiệp cơ bản. Nhằm đảm bảo sau cai nghiện, người nghiện sớm hòa nhập và có công việc ổn định, giảm tỷ lệ tái nghiện.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm của gia đình người nghiện khi người nghiện đi khỏi nơi cư trú. Theo đó, cần quy định theo hướng buộc gia đình người nghiện phải có trách nhiệm khai báo tạm vắng với cơ quan Công an cấp xã nơi thường trú hoặc người nghiện khi đến nơi cư trú mới phải khai báo với cơ quan chính quyền địa phương. Trường hợp không chấp hành thì cơ quản lý đối tượng nghiện tiến hành lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp quản lý cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện.
- Khoản 2: có ý kiến cho rằng cần xem lại thời hạn quản lý “06 tháng đối với người sử dụng trái phép chất ma túy dưới 18 tuổi” tương đối ngắn, đối tượng rất dễ tái nghiện sau cai nghiện. Đề nghị xem xét quy định thời hạn dài hơn, để đảm bảo việc cai nghiện đạt hiệu quả và khả năng tái nghiện giảm.
- Điểm a khoản 3: có ý kiến đề nghị bỏ quy định số lần test “không quá 3 lần” như vậy sẽ khó khăn cho công tác quản lý người nghiện nếu phát hiện đối tượng tiếp tục tái sử dụng ma túy. Đồng thời đối tượng sẽ lợi dụng việc này để đối phó với người được giao thầm quyền quản lý khi test; cùng với đó là phát sinh tranh chấp khiếu nại, khiếu kiện.
- Điểm c khoản 4: có ý kiến cho rằng cần xem xét quy định như điểm c khoản 4 khó thực hiện trong thực tế vì khi chuyển hồ sơ sẽ căn cứ vào nơi cư trú mới của người sử dung trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, theo dự thảo Luật Cư trú thì căn cứ vào cơ sở quốc gia về cư trú để kiểm tra và biết được thông tin về cư trú mới của người sử dụng ma túy nhưng nếu chính quyền địa phương báo không có người, mà người nghiện lại không đăng ký, cập nhật thông tin mới nhất về cư trú thì giải quyết như thế nào? chuyển hồ sơ, tài liệu liên quan cho cơ quan nào?
- Khoản 5: có ý kiến đề nghị cần xem lại nội dung khoản 5 Điều 24 vì theo quy định dự thảo Luật Cư trú thì khoảng thời hạn được phép thay đổi chỗ ở từ nơi này sang nơi khác mới cần phải đăng ký. Như vậy, trường hợp quá thời hạn thì sẽ giải quyết như thế nào?
- Khoản 6: có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 6 quy định hai trường hợp theo hướng:
(1) Người đang chấp hành việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma tuý bị tạm giam để chấp hành án. Vì thời điểm này người này đang bị tạm giam trong nhà tạm giữ, thì cơ quan địa phương có thẩm quyền không cần quản lý.
(2) Người đang chấp hành việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma tuý bỏ địa phương đi, thời hạn bỏ địa phương đi do Hội đồng soạn thảo quyết định. Vì thực tế tình trạng người nghiện bỏ địa phương đi rất nhiều, do muốn né tránh việc cai nghiện.
- Khoản 7: có ý kiến đề nghị cần quy định thống nhất đơn vị cung cấp que test ma tuý nhằm đảm bảo sự thống nhất và khách quan trong thực hiện vì hiện nay mỗi cơ sở đang sử dụng que test ma tuý khác nhau.
6- Về trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 25)
- Khoản 1: có ý kiến cho rằng quy định như khoản 1 khó khả thi vì thực tế rất ít trường hợp người sử dụng trái phép chất ma túy tự khai báo với cơ quan, tổ chức mình đang làm việc vì có thể sẽ bị đuổi việc. Đề nghị sửa lại khoản 1 như sau “Tự khai báo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của mình với Công an xã nơi cư trú”.
7- Về trách nhiệm của gia đình, cơ quan, tổ chức có liên quan (Điều 26)
- Điểm b khoản 1: có ý kiến đề nghị thay cụm từ “thông báo” thành “khai báo”. Điểm b khoản 1 viết lại như sau: “Khi phát hiện người thân có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy phải khai báo với Công an cấp xã nơi cư trú; ngăn chặn người sử dụng trái phép chất ma túy có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội,”. Việc quy định trách nhiệm của gia đình là khai báo sẽ làm tăng tính xác thực của thông tin.
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định khi khai báo thông tin về người sử dụng trái phép chất ma túy với cơ quan Công an cấp xã, người khai báo cần có bằng chứng cụ thể và lời khai được ghi vào văn bản.
8- Về xác định tình trạng nghiện ma túy (Điều 28)
- Có ý kiến cho rằng theo quy định hiện nay, khi muốn xét nghiệm tình trạng nghiện, cần đưa đối tượng vào cơ sở để quản lý, theo dõi diễn biến, thực hiện xét nghiệm và kết luận. Quá trình thực hiện chậm và mất nhiều thời gian, đề nghị xem xét lại quy định tại Điều 28 dự thảo Luật.
- Có ý kiến đề nghị xem xét lại quy định tại Điều 28 vì thực tế nhiều địa phương gặp khó khăn trong việc xác định tình trạng nghiện ma túy do số lượng y, bác sĩ được cấp chứng nhận tập huấn về chuẩn đoán và điều trị cắt cơn nghiện ma túy còn thiếu so với yêu cầu. Vì vậy, đề nghị Bộ Y tế đẩy nhanh quy trình đào tạo và cấp chứng nhận tập huấn về chuẩn đoán và điều trị cắt cơn nghiện ma túy cho đội ngũ y, bác sĩ phù hợp tình hình thực tế.
- Khoản 1: có ý kiến đề nghị bỏ khoản 1 vì nội dung khoản 2 đã bao hàm quy định tại Khoản 1.
- Khoản 3: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “có thẩm quyền” sau “Tòa án nhân dân” để quy định chặt chẽ hơn. Khoản 3 viết lại như sau “...trong thời gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện...” .
9- Về trách nhiệm của người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy (Điều 30)
- Điểm c khoản 1: có ý kiến đề nghị rút ngắn quy định về thời gian kể từ ngày cơ quan y tế xác định được tình trạng nghiện thì người nghiện phải đăng ký cai nghiện tự nguyện là 5 ngày làm việc. Vì thời hạn 15 ngày làm việc là quá dài, nếu sau 5 ngày làm việc mà chưa áp dụng biện pháp cắt cơn, giải độc cho người nghiện thì sẽ không đảm bảo về công tác quản lý, phòng ngừa, ngăn chặn đối tượng tiếp tục vi phạm việc sử dụng ma túy trái phép.
10- Về các biện pháp và hình thức cai nghiện ma túy (Điều 31)
Một số ý kiến cho rằng cần xem xét lại hình thức cai nghiện ma túy tại cộng đồng, vì trên thực tế cho thấy hình thức này không phát huy được hiệu quả.
11- Về cơ sở cai nghiện ma túy (Điều 32)
Có ý kiến cho rằng ngoài cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân, theo quy định của dự thảo Luật còn có cơ sở cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy, cơ sở y tế, cơ sở xã hội khác cung cấp dịch vụ cai nghiện. Đề nghị bổ sung quy định cụ thể về điền kiện hoạt động của các cơ sở cai nghiện ma túy trên vào dự thảo Luật.
12- Về cơ sở cai nghiện ma túy công lập (Điều 33)
- Điểm d khoản 5 quy định “Cán bộ cơ sở cai nghiện ma túy công lập được trang bị trang phục thống nhất theo quy định của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.”. Như vậy, việc quản lý các cơ sở cai nghiện công lập thuộc trách nhiệm của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sẽ ban hành quy định về việc cấp trang phục đối với cán bộ cơ sở cai nghiện nói chung, người bảo vệ cơ sở cai nghiện nói riêng. Tuy nhiên, người bảo vệ cơ sở cai nghiện giữ vai trò quan trọng trong công tác quản lý cơ sở cai nghiện, cần có phương tiện, công cụ phù hợp để thực hiện nhiệm vụ và nếu có tình huống đối tượng cai nghiện trốn khỏi cơ sở cai nghiện thì việc ngăn chặn của người bảo vệ có được xem là thi hành công vụ hay không? Hành vi của đối tượng cố tính chống đối có được xem là chống người thi hành công vụ không? Vì vậy, đề nghị cần quy định cụ thể hơn các nội dung về bảo vệ cơ sở cai nghiện.
Có ý kiến đề nghị quy định giao cho lực lượng công an thực hiện việc bảo vệ cơ sở cai nghiện sẽ đảm bảo hiệu quả vì có chuyên môn quản lý, bảo vệ an ninh, trật tự và được trang bị phương tiện khi thực hiện nhiệm vụ.
13- Về cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân (Điều 34)
- Có ý kiến cho rằng hiện nay công tác quản lý của cơ sở cai nghiện ma túy công lập gặp nhiều khó khăn, đề nghị cần quy định cụ thể về việc thành lập và hoạt động của cơ sở ma túy tư nhân để hỗ trợ cho công tác cai nghiện đạt hiệu quả.
- Khoản 5: có ý kiến đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm của cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân trong việc phối hợp với chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân trong công tác đảm bảo an ninh trật, nhằm dự kiến đối với các tình huống phức tạp có thể xảy ra mà lực lượng đảm bảo an ninh tại cơ sở tư nhân không xử lý được hoặc không được phép xử lý.
14- Về cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng (Điều 35)
- Có ý kiến thống nhất về quy định cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng. Để đảm bảo chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người cai nghiện ma túy, đề nghị cần quy định cụ thể về thời hạn tối thiểu cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng.
- Có ý kiến cho rằng các đối tượng cai nghiện bắt buộc tại các cơ sở cai nghiện, sau cai nghiện tỷ lệ tái nghiện cao. Vì vậy, ý kiến này lo lắng với quy định về cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, công động sẽ khó đạt được kết quả.
- Có ý kiến cho rằng hiện nay, người nghiện ma túy tự nguyện đăng ký cai nghiện với cơ quan cung cấp dịch vụ cai nghiện tại cộng đồng và tại gia đình rất ít, các đối tượng không tự giác, tự nguyện, mà gia đình ép buộc hoặc công an địa phương thuyết phục thì đối tượng mới chấp thuận đi cai nghiện tự nguyện. Vì vậy, đề nghị bổ sung quy định biện pháp chế tài khi người nghiện không tự nguyện đăng ký cai nghiện thì chính quyền địa phương ban hành quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc.
- Khoản 1: có ý kiến cho rằng thực tiễn công tác quản lý công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng còn gặp nhiều khó khăn như công tác quản lý người nghiện, cơ sở vật chất... và hầu hết người nghiện ma túy không tự giác khai báo và tự nguyện đăng ký hình thức cai nghiện tại gia đình cộng đồng. Vì vậy, ý kiến này đề nghị xem xét lồng ghép nội dung cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng vào nội dung cai nghiện tự nguyện cho phù hợp thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy
15- Về cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân (Điều 36)
- Khoản 2: có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về thời gian cai nghiện tự nguyện. Vì trong thực tiễn việc cai nghiện ma túy có nhiều hình thức cai nghiện với thời gian khác nhau tùy thuộc giai đoạn điều trị, phục hồi khác nhau, có trường hợp chỉ có nhu cầu cắt cơn tại cơ sở hoặc cộng đồng hoặc đăng ký điều trị tại các cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện.
- Có ý kiến cho rằng thời hạn cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy thực hiện theo thỏa thuận giữa người cai nghiện ma túy, gia đình người cai chuyện ma túy với cơ sở cai nghiện ma túy, thời gian ít nhất 06 tháng là quá ngắn, khả năng tái nghiện sẽ cao. Bên cạnh đó, người nghiện ma túy có hoàn cảnh khó khăn sẽ không thể chi trả chi phí cai nghiện với thời gian cai nghiện là 06 tháng dẫn đến việc cai nghiện không đạt hiệu quả. Đề nghị xem xét lại quy định này nhằm tạo điều kiện cho người cai nghiện có đủ khả năng thực hiện tốt thời gian cai nghiện.
- Có ý kiến cho rằng việc quy định người nghiện ma túy có thể tự nguyện đăng ký cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện tư nhân sẽ làm khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền không thể áp dụng quy định tại Nghị định 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
16- Về áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy cho người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam; người Việt Nam bị các nước trục xuất về nước do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy (Điều 39)
Có ý kiến cho rằng cần phải quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục pháp lý và thẩm quyền tạm giữ để xác định tình trạng nghiện ma túy, nhất là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài đang sinh sống, làm việc tại Việt Nam hiện có hai quốc tịch, để xử lý đúng theo quy định của pháp luật.
17- Về cai nghiện cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi (Điều 40)
- Có ý kiến đề nghị sửa lại tiêu đề Điều 40 là “Cai nghiện ma túy cho người dưới 18 tuổi”. Theo đó, cần bổ sung nội dung Điều 40 cho phù hợp tiêu đề Điều 40 vì có đối tượng trẻ em dưới 12 tuổi.
- Có ý kiến cho rằng Luật Xử lý vi phạm hành chính có quy định đối với các đối tượng trong độ tuổi 12 đến dưới 18 tuổi mà bị nghiện ma túy thì đưa vào cơ sở giáo dưỡng. Đề nghị bổ sung vào Điều 40 quy định theo hướng có khu vực cai nghiện trong các trường giáo dưỡng nhằm đảm bảo quyền trẻ em trong việc cai nghiện và việc cai nghiện phù hợp Luật Trẻ em hiện hành.
18- Về hỗ trợ xã hội sau cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy (Điều 43)
- Nhiều ý kiến nhất trí về bổ sung quy định hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy học nghề, tìm việc làm, tham gia chương trình phòng, chống tái nghiện ma túy, hoạt động xã hội. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung biện pháp quản lý người sau cai nghiện tại địa phương và quy định về thời gian hỗ trợ xã hội sau cai nghiện ma túy và phòng chống tái nghiện nhằm đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý, hỗ trợ xã hội và phòng chống tái nghiện cho người nghiện sau khi tái hòa nhập cộng đồng về địa phương.
- Có ý kiến bổ sung quy định về trách nhiệm của người đã hoàn thành cai nghiện và gia đình trong việc hòa nhập cộng đồng và phòng, chống tái nghiện như việc khai báo, trình diện, thực hiện đầy đủ các hoạt động hỗ trợ hòa nhập cộng đồng và các chương trình phòng, chống tái nghiện của người hoàn thành cai nghiện có và không có nơi cư trú ổn định.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về vai trò giám sát và công tác phản biện của Mặt trận Tổ quốc đối với công tác cai nghiện và phòng, chống ma túy; về trách nhiệm của dân cư nơi người nghiện sinh sống tái hòa nhập sau cai nghiện trong việc tham gia, giúp đỡ họ sau cai nghiện.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc đảm bảo chế độ đối với đội ngũ thực hiện hỗ trợ xã hội sau cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy phù hợp với tình thực tế của từng địa phương.
19- Về thống kê người nghiện ma túy (Điều 47)
- Có ý kiến cho rằng quy định tại Điều 47 khó khả thi đối với công tác phân loại, thống kê người nghiện ma túy cai nghiện tại cộng đồng.
20- Về chuyển giao hàng hóa có kiểm soát (Điều 67)
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chuyển giao hàng hóa có kiểm soát trên lãnh thổ Việt Nam, để các lực lượng phòng, chống ma túy thực hiện trong quá trình điều tra, khám phá các vụ vận chuyển, mua bán ma túy xuyên quốc gia, có yếu tố nước ngoài nhằm không để lọt tội phạm, truy tận gốc các đối tượng cầm đầu, chủ mưu.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TP.HCM