Để chuẩn bị nội dung cho kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, ngày 11 tháng 9 năm 2020, Đoàn đại biểu Quốc Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo lấy ý kiến của các sở, ngành, đơn vị và các chuyên gia góp ý cho dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, sẽ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV.
Dưới đây là tổng hợp các ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật:
1. Về một số quy định chung
1.1. Về giải thích từ ngữ (sửa đổi, bổ sung Điều 2 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
- Một số ý kiến đồng ý với việc không bổ sung quy định tái phạm đối với trường hợp hành vi vi phạm hành chính bị lập biên bản mà chưa ra quyết định xử phạt và trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quy định này giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong quy trình xử lý vi phạm hành chính lĩnh vực chuyên ngành.
- Có ý kiến đề nghị Ban Soạn thảo xem xét, bổ sung quy định tính “tái phạm” đối với trường hợp trước đó đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng đã bị hủy bỏ do phát hiện có dấu hiệu tội phạm, chuyển hồ sơ đến cơ quan tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết nhưng sau đó lại có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án quy định tại khoản 3 Điều 62, khoản 1 Điều 63 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành, bởi lẽ:
Điều kiện đầu tiên để tính “tái phạm” theo quy định hiện hành là “đã bị xử lý vi phạm hành chính”, tức là không loại trừ trường hợp trước đây đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng đã bị hủy bỏ khi cơ quan tiến hành tố tụng xác định có dấu hiệu tội phạm và thụ lý, giải quyết. Tuy nhiên, Dự thảo đã sửa đổi khoản 5 Điều 2 về giải thích từ ngữ “tái phạm” theo hướng bắt buộc trước đó đã bị “ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính”, tức là hành vi vi phạm đang bị xử lý bằng một quyết định xử phạt vi phạm hành chính đang có hiệu lực.
Trong trường hợp đã nêu ở trên, mặc dù quyết định xử phạt vi phạm hành chính ban đầu đã bị hủy bỏ nhưng lý do hủy bỏ là do hành vi vi phạm đó có dấu hiệu tội phạm, được chuyển cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, về bản chất là có vi phạm nhưng đang xem xét có xử lý hình sự hay không, khi không thỏa mãn cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành thì hành vi vi phạm vẫn có đủ căn cứ để xử lý hành chính.
- Có ý kiến đề nghị sửa đổi giải thích “tái phạm” là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt. Không nên quy định hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vì thời hạn này được tính là 01 năm kể từ khi cá nhân, tổ chức chấp hành xong quyết định xử phạt. Thực tế quy định hiện nay, nếu cá nhân, tổ chức chưa chấp hành quyết định, vẫn tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thì chỉ bị phạt với hành vi mới như ban đầu (khoản 3, Điều 6, Nghị định 81/2013/NĐ-CP), thiếu tính răn đe, còn nếu chấp hành xong quyết định nhưng chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử phạt nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thì lại bị xử phạt là tái phạm.
- Một số ý kiến cho rằng cần giải thích các từ ngữ: “nghiêm trọng”, “ít nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng”, “quy mô lớn”, “số lượng hoặc giá trị hàng hóa lớn”, “tình tiết phức tạp” trong dự thảo Luật. Hiện nay, vẫn chưa có văn bản giải thích cụ thể các khái niệm nêu trên, trong khi đó, các khái niệm này lại được sử dụng rất nhiều trong Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành và là căn cứ để xác định hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong các vụ việc cụ thể. Việc bổ sung các khái niệm nêu trên sẽ giúp cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng thống nhất quy định, tránh tùy tiện, áp dụng theo ý chí chủ quan.
+ Có ý kiến đề nghị cần có văn bản hướng dẫn cụ thể riêng cho lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính về các cụm từ “không nghiêm trọng”, “nghiêm trọng” và “rất nghiêm trọng” để việc xử phạt được rõ ràng, đồng bộ, tránh việc áp dụng khác nhau giữa các cơ quan.
- Khoản 17, Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định: Người đại diện hợp pháp bao gồm cha mẹ hoặc người giám hộ, luật sư, trợ giúp viên pháp lý. Có ý kiến cho rằng, khái niệm này không được sử dụng trong dự thảo Luật. Tại các quy định về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính của dự thảo Luật, việc sử dụng thuật ngữ để chỉ người đại diện không thống nhất, dẫn đến tình trạng làm thu hẹp khái niệm người đại diện hợp pháp (khoản 47, Điều 1 dự thảo Luật sửa khoản 4 Điều 97 “... thông báo cho cha mẹ hoặc người giám hộ ...”), hoặc chồng chéo, dư thừa (Khoản 48, Điều 1 dự thảo Luật sửa khoản 1 Điều 98 “... người bị đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người đại diện của họ, cha mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên phải được mời tham gia cuộc họp...”. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu sử dụng khái niệm người đại diện hợp pháp để dự thảo Luật thống nhất với quy định tại khoản 17, Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành. Ngoài ra, tại Khoản 5b, Điều 125 được bổ sung theo điểm a, khoản 59, Điều 1 dự thảo Luật có sử dụng một khái niệm mới, không có quy định trong Bộ luật Dân sự là “đại diện gia đình người vi phạm” (trang 37), đề nghị làm rõ khái niệm này để thuận lợi cho việc thực hiện trên thực tế.
- Có ý kiến cho rằng, hiện nay rất nhiều trường hợp không thể phân biệt vi phạm hành chính đã thực hiện xong hay đang tiếp diễn, hiện nay các hành vi vi phạm rất tinh vi khó xác định. Do đó, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, đề nghị Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính giải thích bổ sung vào Điều 2 giải thích như thế nào là vi phạm hành chính đã thực hiện xong và vi phạm hành chính đang tiếp diễn để có căn cứ xử lý chính xác, đảm bảo tính thống nhất.
1.2. Về nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 3 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
Một số ý kiến cho rằng, không nên quy định “Một người thực hiện hành vi vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần là tình tiết tăng nặng ...”, quy định như trên sẽ có thể được hiểu là một số hành vi vi phạm sẽ không bị xử lý. Kiến nghị nên quy định theo hướng: một người thực hiện hành vi vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, đồng thời giao Chính phủ quy định danh mục các hành vi vi phạm được xác định là tình tiết tăng nặng.
1.3. Về thẩm quyền quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung Điều 4 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
- Nhiều ý kiến đồng ý với dự thảo Luật về việc bổ sung nội dung giao Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kiểm toán nhà nước và đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Như vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ ban hành Pháp lệnh quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kiểm toán nhà nước và đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng; hành vi vi phạm hành chính có thể được quy định trong Luật, trong Pháp lệnh và trong Nghị định. Hành vi trái pháp luật, có lỗi và phải bị xử phạt vi phạm hành chính là một trong những loại trách nhiệm pháp lý, trực tiếp liên quan đến quyền cơ bản của con người, quyền công dân, liên quan đến lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cần phải được quy định bằng văn bản luật. Do đó, đề nghị gộp khoản 1 và khoản 2 Điều 4, giao thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Có ý kiến cho rằng, khoản 1, Điều 4 quy định: “Căn cứ quy định của Luật này, Chính phủ quy định chi tiết các nội dung sau đây:…”, trong đó có các biểu mẫu xử lý vi phạm hành chính. Nội dung này hiện nay Chính phủ đã giao cho các Bộ, ngành ban hành hướng dẫn và đang được sử dụng, nếu lại ban hành thêm một bộ biểu mẫu mới thì sẽ phức tạp và tốn nhiều chi phí, đề nghị nghiên cứu kỹ để có quy định phù hợp.
- Có ý kiến cho rằng, quy định như Điểm a, Khoản 1, Điều 4 dự thảo Luật là không phù hợp với quy định tại Điều 14, Điều 23, khoản 4 khoản 5 Điều 31, Điều 32 của Hiến pháp năm 2013. Do đó, căn cứ Điều 14, Điều 23, khoản 4 khoản 5 Điều 31 và Điều 32 Hiến pháp 2013, đề nghị Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính không giao Chính phủ quy định chi tiết các nội dung tại điểm a, khoản 1 Điều 4 Luật xử phạt vi phạm hành chính vì nội dung điểm a khoản 1 Điều 4 này liên quan đến đối tượng bị xử phạt hành chính, hành vi vi phạm hành chính, hình thức phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả,… có nghĩa là liên quan đến các quyền của công dân về cư trú, về quyền sở hữu tài sản… Đồng thời, đề nghị bổ sung nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, pháp nhân vì nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và pháp luật xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng tại các nước.
1.4. Về đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính (khoản 1, Điều 5 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
Các ý kiến đồng ý với dự thảo Luật về việc bổ sung nội dung giao Chính phủ quy định cụ thể đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Theo pháp luật hiện hành, chủ thể của quan hệ pháp luật trong một số lĩnh vực có đặc thù, như trong lĩnh vực đất đai thì “hộ gia đình”, “cộng đồng dân cư” là chủ thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, trong lĩnh vực thuế thì “hộ kinh doanh” là chủ thể nộp thuế… Trong quá trình hoạt động, các chủ thể này có thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính và bị xử phạt theo quy định của pháp luật. Hiện nay, một số Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cụ thể như đất đai, xây dựng… đã quy định các chủ thể này là đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính.
- Có ý kiến đồng ý với việc bổ sung đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính là “Hộ gia đình”, “Cộng đồng dân cư”, “hộ kinh doanh”... đồng thời, đề nghị nghiên cứu bổ sung thêm đối tượng là: “Ban quản trị chung cư”. Tuy nhiên cần cân nhắc tính khả thi của quy định, xem xét quy định rõ trách nhiệm cá nhân hoặc tổ chức, nếu là tổ chức phải có tài chính độc lập.
1.5. Về hành vi bị nghiêm cấm (sửa đổi, bổ sung Điều 12 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
Các ý kiến đồng ý với dự thảo luật bổ sung quy định hành vi bị nghiêm cấm, cụ thể là “không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc chấp hành quyết định xử phạt, thi hành biện pháp khắc phục hậu quả”; về chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm đề nghị thực hiện theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ.
2. Về hình thức xử phạt
2.1. Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực (sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính):
- Có ý kiến cho rằng, để bảo đảm yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhiều quan hệ mới phát sinh và hạn chế việc sửa luật, đề nghị bổ sung thêm nội dung: “Trong trường hợp có những quan hệ xã hội mới phát sinh, cần thực hiện việc quản lý nhà nước, Quốc hội giao Chính phủ quy định việc xử phạt trong các lĩnh vực mới phát sinh”.
- Có ý kiến cho rằng, theo quy định tại Điều 68 Luật Khiếu nại năm 2011: “Người nào có một trong các hành vi quy định tại các khoản 5, 6, 7 và 8 Điều 6 của Luật này hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”
Theo Điều 65 Luật Tố cáo năm 2018:“Người có trách nhiệm chấp hành quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo nếu không chấp hành thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật …”.
Theo khoản 9, Điều 1 Luật Tiếp công dân:“Trường hợp những người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh có hành vi kích động, gây rối trật tự hoặc đe dọa đối với người tiếp công dân, người thi hành công vụ thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc Trưởng Ban tiếp công dân, người phụ trách địa điểm tiếp công dân phải kịp thời tăng cường người tiếp công dân; yêu cầu cơ quan công an hoặc cơ quan chức năng có biện pháp xử lý kịp thời.”
Theo khoản 3, Điều 30 Luật Tiếp Công dân quy định: “Trường hợp những người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh có hành vi kích động, gây rối trật tự hoặc đe dọa đối với người tiếp công dân, người thi hành công vụ thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc Trưởng Ban tiếp công dân, người phụ trách địa điểm tiếp công dân phải kịp thời tăng cường người tiếp công dân; yêu cầu cơ quan công an hoặc cơ quan chức năng có biện pháp xử lý kịp thời”; tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân.
Do đó, đề nghị bổ sung thêm lĩnh vực: Khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân với mức phạt tiền tối đa là 40.000.000 đồng (vì những hành vi vi phạm trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân sẽ ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội nên dề xuất áp dụng mức phạt tiền tối đa theo lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội).
- Có ý kiến đề nghị cân nhắc, xem xét nâng mức phạt tối đa đối với một số lĩnh vực như: lĩnh vực đối ngoại (mức phạt tối đa 30.000.000 đồng), lĩnh vực sở hữu trí tuệ (mức phạt tối đa 250.000.000 đồng), lĩnh vực an ninh trật tự, vì các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực nêu trên là những hành vi có khách thể đặc biệt. Cụ thể:
+ Hành vi vi phạm trong lĩnh vực đối ngoại có thể ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, chủ quyền quốc gia;
+ Hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ có thể gây ảnh hưởng cho sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta thực hiện hội nhập ngày càng sâu rộng thì yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng được quan tâm;
+ Nhiều nhóm hành vi vi phạm trong lĩnh vực an ninh trật tự có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường phát triển kinh tế, xã hội, ví dụ các hành vi liên quan đến hoạt động kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự như đòi nợ thuê; về quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ, về quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, pháo và đồ chơi nguy hiểm bị cấm; về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại,…
3. Thẩm quyền xử phạt (sửa đổi, bổ sung các điều từ 38 đến 54 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
3.1. Về chức danh có thẩm quyền xử phạt
- Có ý kiến đề nghị Ban soạn thảo cần rà soát các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để quy định phù hợp, đảm bảo tính thống nhất. Trường hợp Luật khác có quy định thì quy định điều khoản chuyển tiếp. Đồng thời, xem xét tăng thẩm quyền xử phạt của các chức danh vì hiện nay, mức phạt của một số chức danh quá thấp.
- Có ý kiến cho ràng, dự thảo Luật đã bổ sung thêm các chức danh mới có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính song vẫn còn một số chức danh cần bổ sung thẩm quyền: Khoản 2 Điều 34 Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01/11/2017 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa quy định: “Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng” có thẩm quyền xử phạt tương đương với “Chánh Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ”, tuy nhiên Dự thảo Luật hiện nay vẫn chưa bổ sung thẩm quyền cho chức danh “Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng”.
- Có ý kiến cho rằng, về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến việc tạm giữ, trên thực tế rất nhiều cơ quan trên địa bàn Thành phố và cả nước thành lập đoàn kiểm tra chuyên ngành theo chức năng quản lý nhà nước, trong đó có lực lượng kiểm tra chuyên ngành nhưng thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện chỉ quy định cho những người có thẩm quyền theo luật và cho Trưởng đoàn thanh tra, không có quy định thẩm quyền cho Trưởng đoàn kiểm tra. Do đó, đề nghị nên quy định chức năng về xử phạt cho đoàn kiểm tra chuyên ngành để phù hợp thực tiễn, để việc kiểm tra, xử lý dễ dàng hơn trong việc tạm giữ tang vật, phương tiện, nên giao Chính phủ quy định rõ vấn đề này.
- Về quy định thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực cạnh tranh: Có ý kiến cho rằng, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 không quy định cho bất kỳ chức danh nào có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh năm 2018 lại quy định hai chủ thể đặc trưng có quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh là Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia và Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh. Trên cơ sở Luật Cạnh tranh năm 2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2019/NĐ-CP ngày 26/9/2019 xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh và cũng quy định thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia và Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, Dự thảo Luật lại không quy định thẩm quyền xử phạt của các cơ quan này và đề nghị áp dụng theo Luật Cạnh tranh năm 2018. Điều này không hợp lý vì Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay chưa có quy định về nguyên tắc luật chung, luật chuyên ngành nên nếu để Luật Cạnh tranh “tạo lối đi riêng” sẽ không bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, Nghị định số 75/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh cũng căn cứ vào Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 nên nếu không quy định thẩm quyền xử phạt của các chức danh này trong Dự thảo Luật là không phù hợp.
Cũng theo ý kiến này, một điểm cần lưu ý là nếu áp dụng thẩm quyền xử phạt theo Luật Cạnh tranh thì trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt nhưng không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt thì chủ thể nào có thẩm quyền cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vì Luật Cạnh tranh không quy định vấn đề này, trong khi Dự thảo Luật không quy định thẩm quyền xử phạt cũng như thẩm quyền cưỡng chế cho các chức danh này.
4. Về lập biên bản vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung Điều 58 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
- Nhiều ý kiến đề nghị không nên quy định hạn chế thời gian lập biên bản vi phạm hành chính kể từ khi phát hiện hành vi vi phạm là 24 và 48 giờ tại khoản 1, Điều 58 và thời gian chuyển biên bản trong trường hợp vụ việc vượt thẩm quyền là 24 giờ kể từ khi lập biên bản tại khoản 4, Điều 58. Quy định này sẽ gây khó khăn cho người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong việc xác minh hành vi và đối tượng vi phạm cũng như công tác củng cố hồ sơ để chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt. Qua thực tiễn thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính thì quy định về thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính không phải là vấn đề vướng mắc cần cấp thiết phải sửa đổi, bổ sung; quy định thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính như dự thảo chưa phù hợp vì bản chất của việc lập biên bản vi phạm hành chính là ghi nhận hành vi vi phạm hành chính để làm cơ sở cho việc xử lý. Vì vậy, việc lập biên bản vi phạm hành chính chỉ thực hiện sau khi đã xác định được có hành vi vi phạm hành chính, việc phân chia các nhóm thời hạn khác nhau như Dự thảo là không cần thiết. Vì vậy đề nghị không quy định cụ thể thời gian lập biên bản như Dự thảo. Trường hợp phải quy định thì chỉ quy định một loại thời hạn, đồng thời phải dự liệu tình huống xử lý như thế nào đối với hành vi vi phạm hành chính đã phát hiện nhưng biên bản vi phạm hành chính không được lập trong thời hạn mà Luật quy định.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến đồng ý với dự thảo Luật đã quy định cụ thể thời hạn lập biên bản trong từng trường hợp để giải quyết khó khăn, vướng mắc trên. Đối với một số trường hợp vi phạm hành chính ít nghiêm trọng, mức xử phạt không lớn (cảnh cáo hoặc phạt tiền dưới 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức), khoản 1 Điều 56 của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành đã quy định người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt tại chỗ và không cần lập biên bản.
- Có ý kiến đề nghị nên quy định việc lập biên bản vi phạm hành chính không bị giới hạn bởi thời hiệu xử lý (chẳng hạn hết thời hiệu xử lý thì vẫn phải lập biên bản vi phạm ghi rõ thời điểm vi phạm thì mới có cơ sở để xác định là hết thời hiệu xử lý).
- Đoạn 3, khoản 1 Điều 58 dự thảo luật quy định: “Trường hợp phải xác định giá trị tang vật, phương tiện giám định, kiểm định, xét nghiệm thì biên bản vi phạm hành chính được lập trong thời hạn là không quá 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kết quả xác định giá trị tang vật, phương tiện giám định, kiểm định, xét nghiệm”. Có ý kiến cho rằng, việc lập biên bản vi phạm hành chính thường đi đôi với việc tạm giữ tang vật, phương tiện. Như vậy khi lập biên bản vi phạm hay tạm giữ tang vật, phương tiện thì không xác định giá trị tang vật, việc đưa cụm từ phải xác định giá trị tang vật, phương tiện là không hợp lý vì lập biên bản hành chính hay tạm giữ tang vật, phương tiện thì không cần tính đến giá trị. Do đó, đề nghị bỏ cụm từ “phải xác định giá trị tang vật, phương tiện”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền nói chung về việc lập biên bản vi phạm hành chính và bổ sung từ “nhiệm vụ” sau từ “công vụ”, cụ thể: “Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ, nhiệm vụ phải kịp thời lập biên bản”.
- Đoạn 4, khoản 1 Điều 58 dự thảo Luật quy định: “Vi phạm hành chính xảy ra trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa thì người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu có trách nhiệm tổ chức lập biên bản và chuyên ngay cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính khi tàu bay, tàu biển, tàu hỏa về đến sân bay, bến cảng, nhà ga”. Có ý kiến cho rằng, thuật ngữ “chuyển ngay” là một từ không xác định cụ thể về mặt thời gian, dễ tạo ra sự tùy tiện khi áp dụng trong thực tế. Trong khi đó, đoạn 2, khoản 4 Điều 58 Dự thảo lại quy định cụ thể về thời hạn chuyển biên bản: “... trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản phải được chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi lập biên bản”. Do đó, kiến nghị đưa phần nội dung liên quan đến thời hạn chuyển biên bản ở đoạn 4, khoản 1 Điều 58 sang đoạn 2, khoản 4 Điều 58 như sau: “... trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản phải được chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt trong thời hạn không quá 24 giờ, kể từ khi lập biên bản hoặc kể từ khi tàu bay, tàu biển, tàu hỏa về đến sân bay, bến cảng, nhà ga”.
+ Có ý kiến cho rằng, đoạn 4, khoản 1 Điều 58 dự thảo Luật quy định cả về thời hạn và thẩm quyền người lập biên bản vi phạm hành chính vượt ra khỏi phạm vi điều chỉnh của khoản 1. Theo khoản 1, Điều 1 Nghị định 97/2017/NĐ-CP quy định: “1. Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính gồm người có thẩm quyền xử phạt, công chức, viên chức và người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đang thi hành công vụ, nhiệm vụ theo văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản hành chính do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu và những người được chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu giao nhiệm vụ lập biên bản. Các chức danh có thẩm quyền lập biên bản được quy định cụ thể tại các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.”
Do đó, kiến nghị nên tách nội dung đoạn 4, khoản 1 thành một khoản riêng. Đồng thời, cần quy định việc lập biên bản phải thực hiện ngay sau khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày phát hiện bằng biện pháp nghiệp vụ, sử dụng phương tiện, kỹ thuật, hoặc phải xác minh nhân thân cá nhân, thông tin tổ chức vi phạm.
- Có ý kiến đề nghị xem lại quy định tại khoản 1, Điều 58 dự thảo luật, vì đối với việc xử phạt hành vi: “Không có mặt đúng thời gian hoặc địa điểm tập trung ghi trong lệnh gọi nhập ngũ mà không có lý do chính đáng”. Tuy nhiên, “lý do chính đáng” được quy định tại Điều 5, Thông tư số 95/2014/TT-BQP ngày 07 tháng 07 năm 2014 của Bộ Quốc Phòng (hướng dẫn thi hành Nghị định số 120/2013/NĐ-CP) quy định: phải đợi thanh niên có mặt, cơ quan Ủy ban nhân dân phường - xã tiếp xúc với thanh niên để xác định nội dung có hay không có lý do chính đáng, nếu không có lý do chính đáng thì mới đủ điều kiện lập biên bản vi phạm hành chính. Do đó trong vòng 24 giờ hoặc 48 giờ theo dự thảo Luật là không khả thi và không có cơ sở lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi nêu trên mặc dù không phải trường hợp phát hiện vi phạm hành chính nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị, kỹ thuật nghiệp.
- Có ý kiến đề nghị tại khoản 2, Điều 58 dự thảo Luật nên bỏ từ “phải” để thống nhất quy định với đoạn sau của khoản này “biên bản vi phạm hành chính có thể được lập tại địa điểm khác”.
- Khoản 3, Điều 58 dự thảo Luật quy định trong nội dung biên bản có yêu cầu phải ghi rõ biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính (bao gồm các biện pháp được quy định tại Điều 119 Luật Xử lý vi phạm hành chính). Có ý kiến cho rằng, thực tiễn thực hiện quy định này đã phát sinh rất nhiều vướng mắc. Cụ thể: theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo thủ tục, thẩm quyền riêng và độc lập so với thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, được quy định cụ thể tại Phần thứ tư của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, các biện pháp này chỉ được áp dụng sau khi người có thẩm quyền đã thực hiện đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục được quy định tại Phần thứ tư của Luật (phải có quyết định riêng). Như vậy, mặc dù ghi trong Biên bản vi phạm hành chính thì nội dụng ghi ở Biên bản cũng không thay thế cho trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính, dẫn đến có sự vênh giữa việc ghi nhận trong biên bản vi phạm hành chính với việc thực hiện trên thực tế.
Do đó, để tháo gỡ những vướng mắc như trên, đề nghị sửa đổi theo hướng khi đã cho phép ghi trong Biên bản vi phạm hành chính biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính thì đây cũng chính là căn cứ để thực hiện biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính, không yêu cầu phải có thủ tục nào khác mới thực hiện được biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính. Việc yêu cầu phải có thủ tục riêng để thực hiện biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính chỉ đặt ra đối với một số loại biện pháp như khám nơi cất giấu, tang vật vi phạm; khám phương tiện vận tải; quản lý người nước ngoài,… chứ không phải áp dụng đối với tất cả các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính như quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào đoạn cuối khoản 3 nội dung: “Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan, chủ quan (có mặt nhưng không đồng ý ký biên bản vi phạm hành chính) mà không ký vào biên bản …”. Ngoài ra, đề nghị quy định rõ khái niệm “người chứng kiến” theo hướng người chứng kiến là người dân xung quanh, tổ trưởng, tổ phó hoặc là cán bộ, chiến sĩ của địa phương…
- Khoản 4, Điều 58 dự thảo luật quy định biên bản vi phạm hành chính lập xong phải giao cho tổ chức, cá nhân vi phạm một bản, trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản được chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt trong thời hạn 24 giờ kể từ ngày vi phạm hành chính. Có ý kiến cho rằng, quy định như trên rất khó áp dụng trong thực tế, cụ thể nếu biên bản được lập từ cấp phường thụ lý hồ sơ phải xác định thuộc thẩm quyền của ai, trường hợp có tang vật phải định giá, kiểm định, như vậy việc giải quyết trong 24 giờ là không khả thi. Do đó, đề nghị không nên quy định thời hạn không quá 24 giờ đối với trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản được chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt.
+ Có ý kiến đề nghị tại khoản 4, Điều 58 nên quy định cụ thể thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp phải gửi Biên bản vi phạm hành chính như quy định ở khoản này. Thực tế có nhiều trường hợp không có cơ sở biết được chính xác thông tin địa chỉ liên lạc của đối tượng (do đối tượng không cung cấp, cung cấp thông tin không chính xác và người lập Biên bản vi phạm hành chính không có thẩm quyền yêu cầu đối tượng xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ thể hiện địa chỉ chính xác; do đối tượng trốn tránh, không có mặt lúc lập Biên bản vi phạm hành chính…), dẫn đến không gửi được Biên bản vi phạm hành chính thì cách thức xử lý đối với Biên bản vi phạm hành chính này như thế nào, cần phải được dự liệu đầy đủ.
+ Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “hoặc điểm chỉ” vào nội dung khoản 4, Điều 58 tại dòng thứ 2 từ dưới lên và quy định trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm không ký tên/điểm chỉ như sau: “... Nếu... từ chối ký hoặc điểm chỉ thì người lập biên bản phải ghi rõ sự việc và lý do (nếu có)”, vì nhiều trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm chỉ đơn thuần từ chối ký/điểm chỉ mà không nêu lý do, lúc này, người lập biên bản chỉ cần ghi nhận sự việc “cá nhân, tổ chức vi phạm không ký hoặc điểm chỉ” là đủ.
5. Về ra quyết định xử phạt; thi hành, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
- Các ý kiến đồng ý với quy định tại dự thảo luật, đối với trường hợp không ra quyết định xử phạt, trường hợp hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt, cá nhân, tổ chức chỉ bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành; buộc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm trật tự giao thông, xây dựng, đất đai và an ninh trật tự, an toàn xã hội. Quy định như vậy có sự kế thừa quy định hiện hành, qua thực tiễn thi hành không có vướng mắc, để bảo đảm hài hòa lợi ích của cá nhân, tổ chức và yêu cầu của công tác quản lý hành chính nhà nước.
- Đa số ý kiến chọn phương án 2: bổ sung quy định hiện pháp “ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước” thành điểm “d) ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước” vào sau điểm d, khoản 2 Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012. Việc bổ sung quy định trên là cần thiết, tuy nhiên, để đảm bảo quy định này phù hợp với nguyên tắc của Bộ Luật dân sự về giao dịch dân sự thì đề nghị việc ngưng cung cấp này phải trên cơ sở các điều khoản ràng buộc trong hợp đồng dịch vụ giữa đơn vị cung cấp điện/nước với người vi phạm. Theo đó, hành vi vi phạm pháp luật mà cụ thể là các Nghị định chuyên ngành là một trong các thỏa thuận đơn phương chấm dứt hợp đồng, đồng thời, tránh trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm cố tình mua hoặc “câu điện/nước” từ các công trình lân cận, thì dự thảo luật cũng cần dự liệu trường hợp này để giao Chính phủ xử lý các hành vi tiếp tay cho vi phạm hành chính từ các hành vi nêu trên. Bên cạnh đó, biện pháp này cũng cần được bổ sung là một trong các biện pháp để ngăn chặn hành vi vi phạm hành chính, bảo đảm thi hành quyết định xử phạt xử phạt vi phạm hành chính đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên môi trường, xây dựng, quy hoạch kiến trúc, phòng cháy, chữa cháy…
+ Một số ý kiến đề nghị quy định biện pháp “Ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước” được áp dụng đối với các hành vi vi phạm hành chính chứ không chỉ áp dụng “trong lĩnh vực xây dựng, bảo vệ môi trường” như dự thảo Luật, vì tổ chức hay cá nhân khi đã bị xử phạt vi phạm hành chính thì đều có nghĩa vụ, bình đẳng như nhau trong việc chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và nếu không tự nguyện thi hành thì đều phải bị cưỡng chế để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Để phù hợp thực tiễn thì Luật có thể giao cho Chính phủ qui định chi tiết thi hành biện pháp này trong từng lĩnh vực để Chính phủ chủ động khi qui định khi cần thiết.
+ Có ý kiến khác cho rằng, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế “ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước” sẽ đặt ra nhiều vấn đề cần phải cân nhắc kỹ trước khi áp dụng bởi các lý do sau: (1) Nếu việc áp dụng biện pháp cưỡng chế này gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức mà không phải là người vi phạm thì khi ban hành quyết định cưỡng chế “ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước” đối với người vi phạm thì những người bị ảnh hưởng sẽ khiếu nại, khởi kiện về quyết định cưỡng chế, điều này có khả năng làm phát sinh thêm nhiều tranh chấp hành chính trong thực tế. (2) Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế này phải tính đến yếu tố khả thi khi cá nhân, tổ chức vi phạm sau khi bị cưỡng chế ngừng cung cấp điện, nước thì vẫn có thể sử dụng các cách khác có điện, nước để tiếp tục vi phạm. Chẳng hạn: câu điện, nước từ những người sử dụng điện, nước khác; mua máy phát điện để tự phát điện...Do đó, đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ các vấn đề có liên quan khi áp dụng biện pháp cưỡng chế này để có quy định cho phù hợp.
- Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị không nên bổ sung biện pháp “ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước” là biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính vì các lý do sau đây: (1) Biện pháp này chưa được đánh giá tác động theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. (2) Biện pháp này ảnh hưởng lớn đến cá nhân, tổ chức khác có liên quan đến cá nhân, tổ chức vi phạm. Việc bổ sung biện pháp này kèm với điều kiện “không làm ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức khác” là không khả thi, khó áp dụng. (3) Việc cung cấp, sử dụng các dịch vụ điện, nước là quan hệ dân sự dựa trên thỏa thuận theo hợp đồng giữa tổ chức cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ. Nếu áp dụng biện pháp này thì cần có cơ chế phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền ra quyết định, thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổ chức cung cấp dịch vụ điện, nước; nếu bổ sung quy định biện pháp “ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước” là biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì sẽ phải có thêm văn bản hướng dẫn thi hành, chưa thể áp dụng ngay vào đời sống xã hội.
+ Có ý kiến khác cho rằng, việc quy định áp dụng biện pháp cưỡng chế ngừng cung cấp dịch vụ điện, nước là biện pháp không nhân văn, không nhân đạo vì điện, nước là nhu cầu thiết yếu tối thiểu của đời sống người dân, xâm phạm đến đời sống an sinh xã hội của người dân được quy định tại Điều 32, Hiến pháp năm 2013.
6. Về áp dụng biện pháp xử lý hành chính
6.1. Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma túy (sửa đổi, bổ sung Điều 90 và Điều 96 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
- Đa số ý kiến đề nghị không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi mà thực hiện cai nghiện theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy. Việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma túy được quy định theo hướng cơ bản kế thừa các quy định của Luật hiện hành, đã được thực hiện ổn định từ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đến nay, đồng thời chỉnh lý để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với nội dung dự kiến sửa đổi Luật Phòng, chống ma túy. Theo đó, Luật Phòng, chống ma túy quy định tổng thể về cai nghiện ma túy, trong đó có hình thức cai nghiện bắt buộc tập trung. Đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính, được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính; chỉnh lý quy định về đối tượng bị áp dụng biện pháp này (khoản 1 Điều 96) nhằm bảo đảm thống nhất với dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi); đồng thời, bỏ quy định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người đã thành niên nghiện ma túy. Đối với người nghiện ma túy dưới 18 tuổi, việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc không bị coi là việc xử lý hành chính nên chỉ quy định trong Luật Phòng, chống ma túy mà không quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính. Quy định như vậy để góp phần bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em và người dưới 18 tuổi, phù hợp với Luật Trẻ em và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) cũng đang thể hiện theo hướng này, trong đó đã dự kiến bổ sung quy định để tháo gỡ vướng mắc liên quan đến việc áp dụng biện pháp này .
6.2. Về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với đối tượng khác (sửa đổi, bổ sung Điều 90, Điều 92 và Điều 94; bổ sung Điều 140a của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
- Các ý kiến đồng ý với dự thảo Luật đã bổ sung quy định về áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật này (đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng) có nơi cư trú ổn định, đang theo học tại cơ sở giáo dục và cha mẹ, người giám hộ cam kết bằng văn bản về việc quản lý, giáo dục (bổ sung Điều 140a). Quy định như vậy để bảo đảm có chế tài xử lý đối với trẻ em là người có hành vi vi phạm nhưng chủ yếu mang tính khuyến khích, giúp các em nhận thức rõ về hành vi vi phạm pháp luật, được giáo dục trở thành công dân có ích cho xã hội mà không bị “cách ly” khỏi gia đình, cộng đồng, nhà trường, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em, phù hợp với Luật Trẻ em và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
- Có ý kiến đề nghị rà soát về đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc để bảo đảm thống nhất với Bộ luật Hình sự.
- Một số ý kiến đồng ý với dự thảo luật, không quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người có hành vi vi phạm hành chính về an toàn giao thông đường bộ và vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy gây thiệt hại cho người khác.
7. Về biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý hành chính
7.1. Về tạm giữ người theo thủ tục hành chính (sửa đổi, bổ sung Điều 122 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
Các ý kiến đồng ý với dự thảo Luật bổ sung 03 trường hợp tạm giữ người, trong đó trường hợp “tạm giữ người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình”; là cần thiết để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; không bổ sung trường hợp “tạm giữ người để xác minh nhân thân và tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính mà nếu không tạm giữ thì không có căn cứ ra quyết định xử phạt” có mục đích chủ yếu chỉ nhằm tạo thuận lợi cho việc xem xét, quyết định xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền, phạt cảnh cáo...). Việc bổ sung trường hợp“tạm giữ người để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma túy”là phù hợp nhằm khắc phục vướng mắc trong thực tiễn công tác phòng, chống ma túy thời gian qua, bảo đảm tính khả thi của quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy theo hướng dẫn của liên ngành y tế, lao động, thương binh và xã hội, công an đang được áp dụng, đồng thời quy định thời hạn tạm giữ người đối với trường hợp này không quá 05 ngày.
7.2. Về xử lý tang vật, phương tiện bị tạm giữ theo thủ tục hành chính (sửa đổi, bổ sung khoản 4, khoản 4a Điều 126 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
- Một số ý kiến đồng ý với dự thảo luật quy định theo hướng: (1) Đối với tang vật, phương tiện bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt thì khi hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt được chuyển cho người có thẩm quyền cưỡng chế để xem xét, quyết định việc kê biên, bán đấu giá nhằm bảo đảm thi hành quyết định xử phạt (bổ sung khoản 4a Điều 126); (2) đối với tang vật, phương tiện bị tạm giữ trong các trường hợp khác nếu quá hạn tạm giữ sẽ được thông báo đến người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nếu không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý, người sử dụng hợp pháp; sau thời gian thông báo, nếu người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý, người sử dụng hợp pháp không đến nhận, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tịch thu (sửa đổi, bổ sung khoản 4, khoản 4a Điều 126 của Luật Xử lý vi phạm hành chính).
- Điểm a, khoản 4, Điều 126 dự thảo Luật quy đinh: Đối với tang vật phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 125 luật này khi hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt mà cá nhân, tổ chức xử phạt vi phạm hành chính không thi hành quyết định xử phạt thì trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt, người có thẩm quyền tạm giữ phải chuyển tang vật, phương tiện cho người có thẩm quyền cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt để quyết định việc kê biên, bán đấu giá theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo thi hành quyết định xử phạt. Có ý kiến cho rằng, đây là những điểm mới của Luật Xử lý vi phạm hành chính, để giải quyết các tang vật bị tạm giữ để đảm bảo thi hành quyết định xử phạt, tuy nhiên trong thực tiễn việc tạm giữ tang vật, phương tiện trong một năm để đảm bảo thi hành quyết định xử phạt thì rất khó bán đấu giá được do tang vật, phương tiện bị hư hỏng. Do đó, đề xuất sửa đổi thành “bán đấu giá hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật”.
- Khoản 6, Điều 126 dự thảo Luật quy định: “6. Đối với các chất ma túy và những vật thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của Luật này”. Có ý kiến đề nghị sửa lại thành: “6. Đối với các chất ma túy và những vật thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định tại Điều 33 và Điều 82 của Luật này”.
7.3. Về việc quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính (sửa đổi, bổ sung Điều 131 của Luật Xử lý vi phạm hành chính)
- Các ý kiến đồng ý với dự thảo luật quy định đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì giao cho gia đình quản lý đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp này có nơi cư trú ổn định (giữ như hiện hành). Đối với người không có nơi cư trú ổn định hoặc có nơi cư trú ổn định nhưng gia đình không đồng ý quản lý thì giao cho trung tâm, cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý. Quy định như vậy là phù hợp với thực tiễn đang thực hiện theo quy định của Nghị quyết số 77/2014/QH13 của Quốc hội.
- Có ý kiến đề nghị, đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, quy định theo hướng: (1) Đối với người có nơi cư trú ổn định bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thì tiếp tục kế thừa Luật hiện hành, giao cho gia đình quản lý trong thời gian lập hồ sơ; (2) trường hợp người vi phạm không có nơi cư trú ổn định hoặc có nơi cư trú ổn định nhưng gia đình không đồng ý quản lý thì giao Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc có hành vi vi phạm tổ chức quản lý; theo đó, tùy từng trường hợp cụ thể Ủy ban nhân dân cấp xã có thể giao cho cơ quan Công an cấp xã hoặc tổ chức xã hội quản lý, giám sát trong thời gian lập hồ sơ. Đồng thời, giao Chính phủ quy định chi tiết các nội dung này (khoản 8 Điều 131). Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, nếu công an cấp huyện chưa có đủ điều kiện quản lý thì Công an cấp xã càng khó khăn, thực tế Công an cấp xã hiện nay không có nơi quản lý (nơi giữ người), do đó, đề nghị nên quy định lại cho phù hợp với tình hình thực tế.
8. GÓP Ý VÀO CÁC ĐIỀU KHOẢN CỤ THỂ:
8.1. Sửa đổi, bổ sung khoản 3, Điều 25 (khoản 11, Điều 1 dự thảo Luật)
Có ý kiến cho rằng, khoản 3, Điều 25 quy định thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động từ 1 đến 24 tháng, nhưng trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy quy định thời hạn tạm đình chỉ là không quá 30 ngày và trường hợp đình chỉ thì không quy định thời gian, như vậy có sự khác nhau giữa các luật, đề nghị Ban soạn thảo rà soát các quy định pháp luật khác có liên quan để sửa đổi phù hợp đảm bảo tính thống nhất.
8.2. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 39 (khoản 12, Điều 1 dự thảo Luật)
Có ý kiến đề nghị gom chung khoản 5 và khoản 6, Điều 39, dự thảo Luật thành: “5. Giám đốc công an cấp tỉnh, Cục trưởng cục an ninh chính trị nội bộ….Tư lệnh cảnh sát cơ động có quyền:”, nhằm tăng thẩm quyền của Giám đốc Công an cấp tỉnh ngang với thẩm quyền của các cục nghiệp vụ thuộc Bộ trưởng Bộ Công an, vì các lý do sau đây:
- Phù hợp với thẩm quyền của các lực lượng vũ trang đóng ở địa phương có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: Xét mối tương quan về cơ cấu, tổ chức lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là ngang nhau, Công an tỉnh, Thành phố có tổ chức, biên chế ở đầy đủ các cấp chính quyền đông hơn các lực lượng khác. Tuy nhiên bất cập hiện nay là tại khoản 4, Điều 40 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh có thẩm quyền phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này; trong khi đó, tại khoản 5 Điều 39 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định Giám đốc Công an cấp tỉnh có thẩm quyền phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 50.000.000 đồng (Giám đốc công an cấp tỉnh thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chỉ bằng ½ so với Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh).
- Phù hợp với cơ cấu tổ chức bộ máy và thẩm quyền của công an các cấp thuộc Bộ Công an: Theo quy định tại Khoản 4, Điều 39 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì Trưởng công an cấp huyện và Trưởng các phòng nghiệp vụ thuộc Giám đốc Công an cấp tỉnh có thẩm quyền xử phạt ngang với Trưởng các phòng nghiệp vụ trực thuộc các Cục nghiệp vụ thuộc Bộ Công an. Công an cấp tỉnh và các cục nghiệp vụ đều là một đơn vị, một đầu mối tương đương trực thuộc Bộ trưởng Bộ Công an. Giám đốc Công an cấp tỉnh giúp Bộ Trưởng Bộ Công an thực hiện tất cả các nhiệm vụ bảo vệ ANTT ở địa phương, còn Cục nghiệp vụ tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo, hướng dẫn và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trên một lĩnh vực.
- Phù hợp với yêu cầu thực tiễn và giải quyết những khó khăn, vướng mắc hiện nay về công tác xử lý vi phạm hành chính liên quan đến thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời, giải quyết khó khăn liên quan đến quy định của Luật tố tụng hành chính như sau:
+ Theo quy định tại khoản 3, Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính tại các điều từ 39 đến 51 của Luật này có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý. Do vậy, về nguyên tắc, trong trường hợp vụ việc vượt quá thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của người đứng đầu cơ quan được quản lý theo hệ thống ngành dọc tại địa phương thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc đó có thể lựa chọn việc “chuyển ngang” vụ việc cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc “chuyển dọc” cho người đứng đầu cơ quan được quản lý theo hệ thống ngành dọc ở cấp Trung ương.
Vấn đề vướng mắc phát sinh thực tế trong quá trình xử lý vi phạm hành chính theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Khi lực lượng Công an Thành phố phát hiện hành vi vi phạm hành chính và xác định vụ việc vượt quá thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Giám đốc Công an Thành phố, chuyển hồ sơ đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hoặc cục nghiệp vụ thuộc Bộ Công an đều từ chối không ra quyết định xử phạt và đề nghị trình cục nghiệp vụ theo ngành dọc hoặc trình Ủy ban nhân dân Thành phố, sau khi trình 02 cơ quan đều từ chối, Công an Thành phố đành trả hồ sơ về đơn vị thụ lý để lưu trữ, dẫn đến bỏ lọt xử lý vi phạm hành chính, mất tính nghiêm minh của pháp luật.
+ Hiện nay, thời gian ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi xử phạt vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Cục nghiệp vụ thông thường là 30 ngày kể cả ngày nghỉ, ngày lễ (đã được kéo dài thời gian ra quyết định xử phạt), vì vậy khi công an cấp xã (hoặc đội) kiểm tra, phát hiện vi phạm hành chính thì phải trình hồ sơ qua 03 cấp Công an thẩm định và ký phát hành(Công an cấp xã (đội); Công an cấp huyện (hoặc Phòng nghiệp vụ) và Phòng thẩm định trình giám đốc Công an tỉnh) hồ sơ mới đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Cục nghiệp vụ, vì vậy cấp cơ sở không có thời gian để củng cố hồ sơ xử lý vi phạm hành chính mà chủ yếu thời gian qua các khâu trung gian và văn thư chuyển hồ sơ các cấp thẩm định, dẫn đến tình trạng chung là chậm hoặc sát thời hạn mới trình hồ sơ đến cấp có thẩm quyền.
- Việc sửa đổi nhằm tăng thẩm quyền phù hợp với năng lực, tổ chức bộ máy của Công an cấp tỉnh: để tham mưu ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Giám đốc Công an cấp tỉnh và Cục trưởng nghiệp vụ thuộc Bộ Công an thì hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính của Công an cấp tỉnh thường phải trình qua nhiều cấp thẩm định hơn (Đó là cấp phường (hoặc đội) và bộ phận pháp chế của công an cấp tỉnh). Việc tăng thẩm quyền của Giám đốc công an tỉnh có quyền phạt tiền mức tối đa trên lĩnh vực an ninh trật tự vẫn đảm bảo tính phân cấp thẩm quyền rõ ràng so với Ủy ban nhân dân Thành phố và Cục nghiệp vụ thuộc Bộ Công an, cụ thể: Theo quy định tại khoản 3, Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định “Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương”, như vậy Chủ tịch Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung, tức là quản lý mọi ngành, mọi lĩnh vực trong phạm vi địa phương theo thẩm quyền được phân cấp. Do đó khi có vụ việc vi phạm hành chính liên quan đến nhiều lĩnh vực thì thuộc thẩm quyền của chủ tịch Ủy ban nhân dân ra quyết định. Còn Cục nghiệp vụ thuộc Bộ Công an sẽ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi, vụ việc vi phạm hành chính do các phòng nghiệp vụ trực thuộc phát hiện hoặc 01 vụ việc có liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm trên lĩnh vực an ninh trật tự ở nhiều tỉnh, thành phố.
8.3. Sửa đổi, bố sung Điều 48 (khoản 21, Điều 1 dự thảo Luật)
- Có ý kiến cho rằng, tại Điều 498 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điều 468 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 326 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì: “Hình thức xử phạt, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt hành chính đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự, hình sự và hành chính được thực hiện theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính và pháp luật có liên quan”. Tuy nhiên lại không có quy định khung phạt tiền cụ thể đối với từng hành vi vi phạm. Tại Điều 48 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 chỉ quy định thẩm quyền phạt tiền tối đa từ 1.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Việc quy định này nhìn chung cũng có phần giống với các khung hình phạt tù trong luật hình sự. Tuy nhiên, việc quy định về tội hình sự và vi phạm buộc phải xử lý vi phạm hành chính là hoàn toàn khác nhau về cả hành vi, tính chất, mức độ bởi nội dung từng tội phạm đã được quy định cụ thể hoá trong Bộ luật hình sự và việc quyết định hình phạt cụ thể của một bị cáo sẽ dựa vào nội dung của Luật, có từng khung hình phạt cụ thể. Còn Luật xử lý vi phạm hành chính lại không quy định mức phạt cụ thể đối với hành vi vi phạm sẽ gây khó khăn cho người có thẩm quyền xử phạt hoặc sẽ tạo sự tùy nghi, không thống nhất trong việc quyết định mức phạt tiền của người có thẩm quyền xử phạt cùng cấp.
Do đó, kiến nghị cần quy định bổ sung thêm những hành vi bị xử phạt vi phạm hành chính về cản trở hoạt động tố tụng dân sự, hình sự và hành chính và khung phạt tiền cụ thể đối với những hành vi này như: người tham gia tố tụng cố tình không nhận, không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, đang làm việc bỏ về giữa chừng làm cho việc giải quyết phải hoãn nhiều lần; Người tham gia tố tụng được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai hoặc nhiều hơn nhưng cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng; từ chối không khai báo hoặc khai báo không đúng sự thật; mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép để ngăn cản người làm chứng hoặc để họ khai báo gian dối; không chịu ký vào các biên bản làm việc của Tòa án; các cá nhân, tổ chức cố ý tẩu tán, hủy hoại hoặc không cung cấp các tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa cho việc giải quyết các vụ án mà Tòa án yêu cầu cung cấp hoặc có quyết định thu thập chứng cứ; hành vi của Uỷ ban nhân dân các cấp không ban hành văn bản trả lời văn bản của Tòa án hỏi về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho một đương sự nào đó có đúng trình tự, thủ tục, nội dung hay không; các cơ quan chuyên môn không cử người tham gia Hội đồng định giá tài sản theo yêu cầu của Tòa án; đương sự hoặc người nhà của đương sự cản trở hoạt động định giá tài sản, hoạt động xem xét tại chỗ; người bị kiện trong vụ án hành chính cố tình không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án; hành vi gây mất trật tự của đương sự hoặc của người thân của đương sự; luật sư, người đại diện theo ủy quyền hoặc đương sự tỏ thái độ gây hấn với các thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, thư ký Tòa án hoặc gây hấn với Luật sư hoặc đương sự khác; luật sư tự ý rời khỏi phòng xử án, không tiếp tục tham gia phiên xét xử; luật sư hoặc người đại diện theo ủy quyền có thái độ không đúng mực tại phiên tòa; chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không tham gia hoặc không cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
- Về tính thực thi của việc xử lý vi phạm hành chính của ngành Toà án nhân dân: trên thực tế việc các chức danh tư pháp thuộc hệ thống Toà án nhân dân xử phạt vi phạm hành chính là rất ít. Về chuyên môn và hoạt động thì Toà án nhân dân có thẩm quyền chủ yếu là thực hiện hoạt động xét xử do pháp luật tố tụng quy định. Tình huống giả định, có người vi phạm tại phiên toà, đáp ứng đủ điều kiện để xử lý vi phạm hành chính thì Thẩm phán xử phạt phải ra quyết định xử phạt trên cơ sở áp dụng thẩm quyền về hành chính và dự liệu các hệ lụy pháp lý phát sinh như: Tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính nếu đối tượng vi phạm không chấp hành; tự mình giải quyết khiếu nại quyết định xử phạt vi phạm hành chính nếu bị đối tượng bị xử phạt khiếu nại với các bước: gặp gỡ, đối thoại, ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, hoặc trở thành đương sự (người bị kiện) trong vụ án hành chính. Mặt khác, trong các phiên toà sẽ có lực lượng cảnh sát tham gia bảo vệ (đối với phiên toà hình sự có bị cáo đang tạm giam là 100% còn đối với các phiên toà khác, nếu xét thấy diễn biến phiên toà rắc rối, có sự chống đối từ những người tham dự phiên toà thì Thẩm phán cũng có thể yêu cầu hỗ trợ tư pháp). Từ đó, nếu có tình huống phát sinh như một số phần tử quá khích gây rối trật tự phiên toà, các chiến sĩ cảnh sát bảo vệ sẽ xử lý theo quy định thẩm quyền hoặc Trưởng Công an, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp sẽ xử lý theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình nếu hành vi vi phạm vượt quá thẩm quyền của chiến sĩ cảnh sát.
Việc giao quyền xử lý vi phạm hành chính cho cơ quan có thẩm quyền xét xử như các chức danh trong hệ thống Toà án nhân dân là chưa phù hợp. Bởi, thứ nhất là không phù hợp về chuyên môn, thứ hai đang gây khó khăn cho các chức danh thuộc hệ thống Toà án nhân dân khi trong trường hợp cụ thể, có thể sử dụng quyền xử lý vi phạm hành chính nhưng không được linh hoạt, từ đó buộc phải nhờ đến cơ quan khác. Sự phối hợp giữa các cơ quan cũng không được linh động, nhịp nhàng do họ hiểu rằng chức danh tư pháp của Toà án nhân dân cũng có quyền xử phạt vi phạm hành chính và nếu họ thực hiện, làm thay thì có thể bị khiếu nại, khiếu kiện do không đúng thẩm quyền. Do đó, kiến nghị xem xét tính cần thiết, nếu có thể thì bỏ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các chức danh tố tụng của Toà án nhân dân các cấp trong Luật xử phạt vi phạm hành chính để họ tập trung vào chức năng chính là giải quyết, xét xử các vụ án theo quy định pháp luật.
8.4. Sửa đổi, bổ sung Điều 54 ( Khoản 26, Điều 1 dự thảo Luật)
Có ý kiến đề nghị kết hợp việc giao quyền xử phạt và giao quyền cưỡng chế thành một Điều.
8.5. Sửa đổi sửa đổi, bổ sung Điều 61 (khoản 28, Điều 1 dự thảo Luật)
- Khoản 1 Điều 61 dự thảo Luật quy định: “Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền đối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức …”. Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng cum từ “áp dụng” trong Khoản 1 Điều 61 hiện hành đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về những trường hợp được giải trình, cụ thể như:
+ Có thể hiểu là cá nhân, tổ chức bị xử phạt tiền ở mức tối đa của khung tiền phạt và số tiền đó là từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức (đối tượng bị xử phạt có có tình tiết tăng nặng) thì cá nhân, tổ chức đó có quyền giải trình.
+ Cách hiểu khác là cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính có mức tiền phạt tối đa của khung từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì có quyền giải trình.
Do đó, đề nghị bỏ cụm từ “áp dụng” và sửa lại như sau: “Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc có mức đối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức …”.
- Có ý kiến đề nghị về điều kiện được giải trình tại khoản 1, Điều 61 nên quy định: áp dụng mức tiền phạt từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân và từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức, không nên quy định phải áp dụng mức tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó là từ 15.000.000 và 30.000.000. Vì mức tiền phạt là mức trung bình của khung tiền phạt (1/2 của mức tối đa + mức tối thiểu). Nếu áp dụng mức tối đa thì cá nhân, tổ chức vi phạm phải có yếu tố, tính chất tăng nặng như trong quy định tại khoản 10, Điều 1 dự thảo Luật về sửa đổi, bổ sung khoản 4, Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Tại khoản 2, Điều 61 dự thảo Luật quy định trường hợp giải trình bằng văn bản thì đề nghị người vi phạm: “gửi văn bản giải trình cho cơ quan người có thẩm quyền xử phạt”. Tại khoản 3 trường hợp giải trình trực tiếp thì đề nghị người vi phạm: “gửi văn bản yêu cầu được giải trình trực tiếp đến người có thẩm quyền xử phạt”. Có ý kiến cho rằng, về bản chất 02 trường hợp nêu trên đều thuộc trường hợp giải trình và đều phải gửi văn bản để giải trình, do đó, đề nghị thống nhất một chủ thể gửi văn bản để thuận lợi khi thực hiện.
- Khoản 3, Điều 61 dự thảo Luật quy định: người có thẩm quyền xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho người vi phạm về thời gian địa điểm sẽ tổ chức giải trình trực tiếp trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của người vi phạm. Có ý kiến cho rằng, trong thực tiễn xử lý vi phạm hành chính hiện nay thì việc tổ chức phiên giải trình trực tiếp rất hạn chế, hầu hết là hướng dẫn cho tổ chức cá nhân vi phạm và hướng vào việc giải trình bằng văn bản, bởi lẽ cơ quan thụ lý để trình hồ sơ ra quyết định xử phạt thì không có thẩm quyền xử phạt. Do đó, đề nghị thay đổi cụm từ “người có thẩm quyền xử phạt” thành “cơ quan đang thụ lý, tham mưu giải quyết vụ việc”.
- Khoản 4, Điều 61 dự thảo Luật quy định :“4. Trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không yêu cầu giải trình nhưng trước khi hết 05 ngày làm việc quy định tại khoản 2 và 02 ngày làm việc quy định tại khoản 3 Điều này lại có yêu cầu giải trình thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm”. Có ý kiến cho rằng, phiên giải trình rất quan trọng, do đó, cần bổ sung quy định tại Điều 61 phiên giải trình là thủ tục bắt buộc phải có trong thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có quyền giải trình, không bắt buộc phải yêu cầu giải trình mới được giải trình.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung tại Điều 61 nội dung: “Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có quyền yêu cầu người tư vấn, hỗ trợ pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tham gia từ khi lập Biên bản vi phạm hành chính, nhất là tham gia tại phiên giải trình. Người tư vấn, hỗ trợ pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính bao gồm: Luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp viên pháp lý đối với đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung tại Điều 61 quy định về người phiên dịch trong trường hợp cá nhân vi phạm hành chính là người dân tộc, người nước ngoài, người khuyết tật nhìn, người khiếm thính. Trong trường hợp cá nhân vi phạm hành chính là người khuyết tật, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, khi lập biên bản vi phạm hành chính phải có sự tham dự của người đại diện hợp pháp hoặc sự tham dự của luật sư.
8.6. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 và khoản 2, Điều 63 (khoản 29, Điều 1 dự thảo Luật)
- Có ý kiến cho rằng, để bảo đảm rõ ràng, chặt chẽ trong việc xử lý các hồ sơ có liên quan đến các cơ quan tiến hành tố tụng, đề nghị bổ sung vào Khoản 1 cụm từ “do tiếp nhận từ các cơ quan quản lý nhà nước hoặc trực tiếp phát hiện vi phạm”. Như vậy, khoản 1 sửa như sau: “Đối với vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết do tiếp nhận từ các cơ quan quản lý nhà nước hoặc trực tiếp phát hiện vi phạm, nhưng sau đó lại có một trong các quyết định…”, nhằm khắc phục hạn chế ở Điều 63 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành vì có quan điểm cho rằng Điều 63 Luật Xử lý vi phạm hành chính chỉ áp dụng đối với những vụ việc mà các cơ quan tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện trong quá trình điều tra, xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật, không áp dụng cho các trường hợp vụ việc do các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện vi phạm nhưng có dấu hiệu vi phạm hình sự và chuyển các cơ quan tiến hành tố tụng để xem xét xử lý hình sự theo quy định tại Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Có ý kiến cho rằng, theo quy định tại khoản 1, Điều 63 thì khi không đủ yếu tố cấu thành tội hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt, nhưng theo quy định tại khoản 3, Điều 62 thì khi không đủ yếu tố cấu thành tội hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng chuyển trả hồ sơ cho người có thẩm quyền xử phạt đã chuyển hồ sơ đến. Đề nghị sửa nội dung quy định về cơ quan nhận hồ sơ để xem xét xử phạt vi phạm hành chính quy định tại khoản 1, Điều 63 và Khoản 3 Điều 62 cho thống nhất, theo hướng như quy định tại khoản 1, Điều 63, tức là hồ sơ sẽ được chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt.
- Khoản 1, Điều 63 dự thảo Luật có quy định “trong thời hạn 03 ngày làm việc sau khi có quyết định không khởi tố vụ án, quyết định đình chỉ đối với bị can miễn trách nhiệm hình sự theo bản án thì phải chuyển hồ sơ và tang vật đã xử lý vi phạm hành chính”. Có ý kiến cho rằng, quy định này không phù hợp với ngành Công an vì những quyết định không bị khởi tố sẽ phải chuyển cho Viện kiểm sát phê chuẩn, thực tế phải chờ văn bản trả lời của Viện kiểm sát sau đó mới chuyển hồ sơ xử lý vi phạm hành chính và thời gian này có thể là một tháng. Kiến nghị nên bổ sung quy định phải chờ thời gian phê chuẩn của Viện kiểm sát, quyết định mới được phép thực hiện chuyển sang xử lý vi phạm hành chính.
- Có ý kiến cho rằng, khoản 1, Điều 63 dự thảo Luật đã bổ sung trường hợp xem xét xử phạt vi phạm hành chính nếu có hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính đối với vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó lại có “quyết định về việc miễn trách nhiệm hình sự theo bản án”. Kiến nghị Ban soạn thảo xem xét, loại bỏ trường hợp có quyết định về việc “miễn trách nhiệm hình sự theo bản án” nêu trên vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 1, Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về khái niệm “Vi phạm hành chính” thì hành vi vi phạm hành chính là “hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Do đó, các hành vi vi phạm pháp luật thỏa mãn cấu thành tội phạm cụ thể quy định trong Bộ luật Hình sự phải được xử lý bằng pháp luật hình sự, hay nói cách khác, trách nhiệm pháp lý mà người có hành vi vi phạm phải chịu là trách nhiệm hình sự, không phải là trách nhiệm hành chính.
Thứ hai, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người được miễn trách nhiệm hình sự là người có hành vi phạm tội, hành vi đó thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm, tức là hành vi vi phạm của họ là tội phạm và họ phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, vì nhiều yếu tố khách quan làm cho tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đó giảm đi đáng kể nên họ có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29 Bộ luật hình sự hiện hành).
Như vậy, về bản chất, người phạm tội dù được miễn trách nhiệm hình sự nhưng họ vẫn là người phạm tội, hành vi của họ vẫn bị coi là tội phạm, hành vi của họ đã bị xử lý theo pháp luật hình sự. Do đó, việc bổ sung trường hợp người được miễn trách nhiệm hình sự theo bản án cũng có thể bị xử phạt vi phạm hành chính trong Dự thảo đang mâu thuẫn với quy định tại khoản 1, Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về khái niệm “Vi phạm hành chính” và mâu thuẫn với nguyên tắc một hành vi vi phạm nhưng đồng thời bị xử lý bằng pháp luật hình sự và pháp luật hành chính.
- Có ý kiến cho rằng, nội dung Điều 63 quy định việc tiếp nhận xử lý hình sự của các cơ quan tố tụng đối với các vi phạm hành chính, để phân biệt với thẩm quyền xử phạt của những người tiến hành tố tụng, kiến nghị nên quy định bổ sung như sau: “Đối với vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết do tiếp nhận yêu cầu từ các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, nhưng sau đó quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự... thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan tố tụng hình sự phải có văn bản đề nghị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thụ lý giải quyết kèm theo toàn bộ bản gốc hồ sơ, tang vật, phương tiện liên quan của vụ việc.”
8.7. Sửa đổi, bổ sung Điều 64 (khoản 30, Điều 1 dự thảo Luật)
- Điểm b, khoản 3 Điều 64 dự thảo Luật quy định kết quả thu thập bằng nghiệp vụ chỉ được xử phạt trong vi phạm hành chính. Có ý kiến cho rằng, quy định như trên sẽ làm thiếu tính nghiêm minh của pháp luật, do đó đề nghị nên bỏ quy định này.
- Có ý kiến cho rằng, việc áp dụng phương tiện, kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính là cần thiết, tuy nhiên phải chú ý đến quyền bí mật về đời sống riêng tư được quy định tại Điều 21, Hiến pháp năm 2013 và quyền của cá nhân đối với hình được quy định tại Điều 32, Bộ luật dân sự 2015.
8.8. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 65 (khoản 31, Điều 1 dự thảo Luật)
Khoản 2, Điều 65 dự thảo Luật quy định: "2. Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, xây dựng, đất đai, và an ninh trật tự, an toàn xã hội…”.
Có ý kiến đề nghị sửa lại thành: "2. Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này”, nhằm đảm bảo tính khách quan khi áp dụng trong thực tế.
- Có ý kiến cho rằng, Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định những trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đối với những trường hợp này không đóng tiền xử phạt như có thể thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả, tuy nhiên điểm d quy định khi chuyển hồ sơ vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì không nêu biện pháp khắc phục hậu quả, tại Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế thì lại bao quát luôn trường hợp này là kể cả chuyển hồ sơ vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì không áp dụng quy định xử phạt nhưng có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, do đó có những trường hợp cơ quan thuế chuyển hồ sơ qua cơ quan Công an, thì sẽ bỏ lọt tội phạm nhất là đối với những trường hợp trốn thuế lớn, nếu áp dụng được biện pháp khắc phục hậu quả thì sẽ đề nghị nộp lại số tiền thuế đã trốn, đã hoàn nhưng quy định này trái với luật vì luật không có quy định trường hợp này phải khắc phục hậu quả.
8.9. Sửa đổi, bổ sung Điều 66 (khoản 32 Điều 1 dự thảo Luật)
- Điểm a khoản 1 Điều 66 dự thảo Luật quy định: “Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:
a) Đối với vụ việc không thuộc trường hợp quy định tại các điểm b và c khoản này, thời hạn ra quyết định xử phạt là 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật này...”
Có ý kiến đề nghị nên quy định tăng thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt có thể nghiên cứu. Vì nhiều trường hợp thực tế người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là cơ quan ở Trung ương, cơ quan đóng ở các địa bàn khác Tỉnh...; đồng thời khi tiếp nhận hồ sơ, người có thẩm quyền cũng cần có một thời hạn nhất định để nghiên cứu hồ sơ hoặc xác minh các tình tiết liên quan trước khi ban hành quyết định xử phạt, giảm rủi ro phải ban hành các quyết định thu hồi, hủy bỏ quyết định xử phạt, tiết kiệm thời gian, nâng cao chất lượng công việc và tính nghiêm minh của pháp luật.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào điểm d, khoản 1 Điều 66 dự thảo Luật quy định: “Giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp”, để tránh tùy tiện trong việc kéo dài thời hạn ra quyết định xử phạt.
8.10. Sửa đổi, bổ sung Điều 76 (khoản 35, Điều 1 dự thảo Luật)
- Điểm b, khoản 1 Điều 76 dự thảo Luật quy định: “Trường hợp tổ chức đang gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, cơ quan quản lý trực tiếp hoặc cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp”. Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ ràng hơn để tránh trường hợp có nhiều cách hiểu gây khó khăn cho người dân và cơ quan thực hiện, cụ thể trường hợp này phải có xác nhận tất cả cơ quan trong phần liệt kê trên hay một trong các cơ quan trong phân liệt kê (hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Ban quản lý...). Ngoài ra, đề nghị bổ sung quy định thời hạn cơ quan có thẩm quyền phải cấp “văn bản xác nhận” cho người vi phạm để đảm bảo quyền lợi, tính kịp thời cấp thiết, đặc biệt tránh tùy tiện của các cơ quan có thẩm quyền trong việc phải xác nhận.
- Có ý kiến cho rằng, tên Điều 76 và khoản 1 Dự thảo Luật quy định là: “hoãn thi hành quyết định phạt tiền”, trong khi khoản 2, Điều 76 dự thảo Luật lại nêu đồng thời 02 nội dung “hoãn chấp hành quyết định xử phạt ” và “hoãn thi hành quyết định xử phạt”; và tại khoản 3, Điều 76 dự thảo Luật lại nêu nội dung là “hoãn chấp hành quyết định xử phạt”, đề nghị Ban soạn thảo xem xét chỉnh sửa để đảm bảo tính thống nhất trong nội dung của Điều 76.
- Có ý kiến cho rằng, nội dung của khoản 3, Điều 76 dự thảo Luật mâu thuẫn với nhiều quy định khác tại dự thảo Luật. Khoản 3, Điều 76 dự thảo luật về cơ bản giữ nguyên nội dung của quy định hiện hành (chỉ bổ sung thêm từ “tổ chức” sau chữ cá nhân), việc tạm hoãn thi hành quyết định phạt tiền về bản chất là chưa thi hành quyết định. Điều này, cho phép cá nhân, tổ chức được tạm hoãn chấp hành quyết định xử phạt được nhận lại giấy tờ, tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đang bị tạm giữ là không phù hợp vì nó làm vô hiệu hóa và mâu thuẫn với điểm c, khoản 1, Điều 125 (việc tạm giữ giấy phép là để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt); khoản 2, Điều 125 (việc tạm giữ tang vật, phương tiện phải được chấm dứt ngay sau khi quyết định xử phạt được thi hành); khoản 8, Điều 125 được bổ sung theo khoản 59, Điều 1 Dự thảo quy định “Trường hợp tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt quy định tại điểm c, khoản 1, Điều này thì thời hạn tạm giữ kết thúc khi quyết định xử phạt được thi hành xong”. Mặt khác, nếu khi được hoãn chấp hành hình phạt đã được nhận lại giấy tờ, tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đang bị tạm giữ thì không thể thực hiện khoản 5 Điều 77 do đã trả lại giấy tờ, phương tiện ngay khi có quyết định tạm hoãn thi hành quyết định xử phạt. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bỏ khoản 3, Điều 76 để đảm bảo phù hợp với các quy định khác của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung các lý do được xem là khó khăn về kinh tế để được tạm hoãn thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm tính khả thi, cụ thể như: cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, thất nghiệp, không có thu nhập ổn định; tổ chức bị phá sản, …
8.11. Sửa đổi, bổ sung Điều 77 (khoản 36, Điều 1 dự thảo Luật)
Có ý kiến đề nghị bỏ từ “giảm” quy định tại khoản 5, Điều 77 vì nội dung của khoản 5 đề cập đến khoản 2, 3 Điều 77 mà hai khoản này chỉ quy định về miễn tiền phạt (việc giảm tiền phạt quy định tại khoản 1).
8.12. Sửa đổi, bổ sung Điều 78 (khoản 37, Điều 1 dự thảo Luật)
Khoản 1 Điều 78 dự thảo Luật quy định: “1. Trong thời hạn thi hành quyết định xử phạt quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật này, cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt, trừ trường hợp đã nộp tiền phạt quy định tại khoản 2 Điều này và trường hợp nộp tiền phạt nhiều lần quy định tại Điều 79 của Luật này. Nếu quá thời hạn nêu trên, thì sẽ bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt và cứ mỗi ngày chậm nộp phạt thì cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp thêm 0,05% trên tổng số tiền phạt chưa nộp”.
Có ý kiến cho rằng, quy định mức xử phạt chậm nộp 0,05%/ngày là cao so với khả năng thu nhập bình quân của người dân ở nông thôn, dân nghèo thành thị. Do đó, kiến nghị quy định nên quy định giảm xuống còn 0,03% trên tổng số tiền phạt chưa nộp. Bên cạnh đó, đề nghị quan tâm đến mức lãi suất quy định đối với Hợp đồng vay tài sản được quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự không được vượt quá 20%/năm. Đó là Hợp đồng giao dịch dân sự về vay tài sản. Không nên lấy mức lãi suất này để so sánh với việc phạt chậm nộp xử phạt vi phạm hành chính. Điều 468 Bộ luật dân sự.
8.13. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 81 (khoản 39, Điều 1 dự thảo Luật):
Có ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng áp dụng biện pháp ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước tại khoản 39, Điều 1 dự thảo luật về bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2, Điều 81 như vi phạm về xây dựng hoặc các lĩnh vực khác.
8.14. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 88 (khoản 42, Điều 1 dự thảo Luật)
- Có ý kiến đề nghị dự thảo bổ sung và làm rõ nội dung không tính thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế đối với trường hợp “cố tình trốn tránh trì hoãn” để tránh trường hợp có nhiều cách hiểu hoặc lúng túng trong áp dụng pháp luật. Quy định này phù hợp và thống nhất với khoản 2, điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính: “Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn”.
- Có ý kiến đề nghị sửa theo bản dự thảo Luật trước đây, cụ thể:
"1. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, người ra quyết định cưỡng chế có trách nhiệm gửi quyết định cưỡng chế cho các cá nhân, tổ chức liên quan và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt của mình và của cấp dưới.
Thời hạn tự nguyện thi hành quyết định cưỡng chế là 15 ngày, kể từ ngày cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế nhận quyết định cưỡng chế; trường hợp quyết định cưỡng chế có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 15 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó.
Hết thời hạn tự nguyện thi hành quyết định cưỡng chế, cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế thi hành quyết định cưỡng chế.
2. Sau khi hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan, người có thẩm quyền cưỡng chế phải tổ chức thực hiện ngay việc cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí về việc tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế.”
8.15. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 125 (khoản 59, Điều 1 dự thảo Luật)
Có ý kiến đề nghị chuyển đoạn cuối khoản 8, Điều 125: “người có thẩm quyền tạm giữ...chứng chỉ hành nghề” lên sau đoạn 2 cho nội dung được liên tục, dễ hiểu.
8.16. Bổ sung Điều 140a vào sau Điều 140 trong Chương II Phần thứ năm (khoản 65, Điều 1 dự thảo Luật)
Có ý kiến cho rằng, xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và Luật Trẻ em, Ban soạn thảo và các cơ quan có liên quan đã kiến nghị bổ sung thêm “Biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng” là biện pháp thay thế cho biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng (áp dụng đối với đối tượng quy định tại khoản 1, Điều 92 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành: “Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự”). Đây là quy định hoàn toàn mới so với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành nên cần phải xem xét, nghiên cứu thật kỹ lưỡng để quy định này có thể đạt được mục đích và đi vào cuộc sống. Một trong những điều kiện xem xét áp dụng biện pháp này là “cha mẹ, người giám hộ cam kết bằng văn bản về việc quản lý, giáo dục”. Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa đề cập đến cha mẹ, người giám hộ cụ thể phải cam kết thực hiện những nghĩa vụ nào và chưa dự liệu trường hợp người cam kết vi phạm nghĩa vụ cam kết thì phải xử lý như thế nào, ai là người có thẩm quyền xử lý, trình tự, thủ tục như thế nào, có quay lại áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hay không hay chuyển sang áp dụng một biện pháp khác; đồng thời, có chế tài nào để xử lý đối với người vi phạm cam kết hay không? Nếu thống nhất bổ sung quy định này vào Luật Xử lý vi phạm hành chính thì Chúng ta phải chuẩn bị trước tinh thần, nhân lực để ban hành thêm văn bản hướng dẫn.
8.17. Về bãi bỏ các Điều 50, 82 và 142 (khoản 69, Điều 1 dự thảo Luật)
Một số ý kiến đồng ý việc bãi bỏ Điều 50, 82. Tuy nhiên, Điều 142 là điều quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, trong đó giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật, việc bãi bỏ Điều 142 là không phù hợp vì trong dự thảo Luật có rất nhiều quy định “Chính phủ quy định chi tiết khoản này” như khoản 3 Điều 18, khoản 4 Điều 23 (trang 4), khoản 3 Điều 25 (trang 6), khoản 4 Điều 54 (trang 15), khoản 7 Điều 58 (trang 17), khoản 1 Điều 61 (trang 18)... Do đó, đề nghị sửa khoản 69, Điều 1, Dự thảo Luật thành “Bãi bỏ Điều 50 và Điều 82.”, đồng thời bổ sung khoản 70, Điều 1 dự thảo Luật là sửa đổi Điều 142 thành “Giao Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật.”
9. Góp ý một số điều khoản khác của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
9.1. Về tình tiết giảm nhẹ (Điều 9) và tình tiết tăng nặng (Điều 10)
Có ý kiến đề nghị bổ sung các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ quy định tại Điều 9, Điều 10 Luật Xử lý vi phạm hành chính cho phù hợp với thực tế vi phạm trong một số lĩnh vực. Vì theo quy định hiện nay, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chỉ phù hợp đối với lĩnh vực an ninh trật tự.
9.2. Về phạt tiền (Điều 23)
- Đề nghị bổ sung “lĩnh vực xây dựng” vào đoạn 2, Khoản 1, Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 vì đây là lĩnh vực cần tập trung quản lý tại các đô thị, cụ thể: “1. Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 24 của Luật này.
Đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc trung ương thì mức phạt tiền có thể cao hơn, nhưng tối đa không quá 02 lần mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi phạm trong các lĩnh vực giao thông đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng.”
9.3. Về xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản (Điều 56)
- Có ý kiến cho rằng, hiện nay, mức phạt tiền đang được điều chỉnh tăng lên để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, kiến nghị điều chỉnh mức phạt tiền áp dụng thủ tục xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản tăng lên (có thể đến 500.000 đồng đối với cá nhân, 1.000.000 đồng đối với tổ chức) để xử phạt nhanh kịp thời các hành vi vi phạm nhỏ.
9.4. Về xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt (Điều 60)
Khoản 3, Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định thời gian tạm giữ tang vật để xác định giá trị là không quá 24 giờ và nếu trong trường hợp cần thiết có thể kéo dài thêm nhưng không quá 24 giờ (tổng cộng tối đa 48 giờ). Có ý kiến cho rằng, quy định thời gian như trên là quá ngắn để thành lập hội đồng định giá cũng như thực hiện việc định giá, nhất là với những vụ vi phạm do Đoàn kiểm tra liên ngành về giá tạm giữ tang vật là hàng hóa nhập lậu, không rõ nguồn gốc như: mỹ phẩm, rượu, thuốc lá..., đề nghị sửa đổi cho phù hợp.
9.5. Về chuyển quyết định xử phạt để tổ chức thi hành (Điều 71)
Tại khoản 2 Điều 71 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định: “Trong trường hợp vi phạm hành chính xảy ra ở địa bàn cấp huyện này nhưng cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở ở địa bàn cấp huyện khác và thuộc phạm vi một tỉnh ở miền núi, hải đảo, vùng xa xôi, hẻo lánh mà việc đi lại gặp khó khăn và cá nhân, tổ chức vi phạm không có điều kiện chấp hành quyết định xử phạt tại nơi bị xử phạt thì quyết định xử phạt được chuyển đến cơ quan cùng cấp nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở để tổ chức thi hành”.
Có ý kiến đề nghị sửa lại thành: “Trong trường hợp vi phạm hành chính xảy ra ở địa bàn cấp huyện này nhưng cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở ở địa bàn cấp huyện khác mà việc đi lại gặp khó khăn và cá nhân, tổ chức vi phạm không có điều kiện chấp hành quyết định xử phạt tại nơi bị xử phạt thì quyết định xử phạt được chuyển đến cơ quan cùng cấp nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở để tổ chức thi hành (kiến nghị bỏ cụm từ: và thuộc phạm vi một tỉnh ở miền núi, hải đảo, vùng xa xôi, hẻo lánh) hoặc quy định rõ hơn việc chuyển giao, ủy thác thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính). Vì thực tế cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở ở địa bàn cấp huyện khác tại Thành phố Hồ Chí Minh không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính không thuộc phạm vi điều chỉnh của khoản 2 Điều 71 nên rất khó thực hiện.”
9.6. Về các biện pháp cưỡng chế đã được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012:
Có ý kiến cho rằng, theo Báo cáo của Bộ Tư pháp thì số lượng quyết định xử phạt bị cưỡng chế chưa đến 1%/tổng số quyết định xử phạt được ban hành, tuy nhiên điều này không phải vì lý do các quyết định xử phạt được thi hành hiệu quả mà vì lý do các biện pháp cưỡng chế hiện nay chưa được áp dụng hiệu quả nên số lượng quyết định bị cưỡng chế còn rất ít so với số quyết định xử phạt chưa thi hành được. Các biện pháp cưỡng chế hiện hành chưa phát huy hiệu quả áp dụng trong thực tế, như:
+ Đối với biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản: Điều kiện tiên quyết để người có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khấu trừ tiền từ tài khoản là phải xác minh được cá nhân, tổ chức có tiền gửi tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên việc xác minh thông tin về tài khoản của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế hiện nay gặp rất nhiều khó khăn do nước ta chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về tài khoản tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Trong khi đó, việc yêu cầu cá nhân, tổ chức vi phạm thông báo về thông tin tài khoản tiền gửi trên thực tế là bất khả thi, nhất là đối với cá nhân bởi việc áp dụng biện pháp khấu trừ tiền từ tài khoản ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản, lợi ích của đối tượng bị cưỡng chế. Do đó, các chủ thể này luôn cố tình cất giấu hoặc cung cấp sai thông tin về tài khoản của mình nhằm trốn tránh bị cưỡng chế. Khó khăn trong công tác xác minh thông tin tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm và thực hiện khấu trừ số tiền bị cưỡng chế xuất phát từ việc các quy định pháp luật hiện hành chưa có các biện pháp cần thiết để buộc cá nhân, tổ chức vi phạm hay tổ chức tín dụng nghiêm túc cung cấp thông tin về tài khoản cũng như tiến hành trích chuyển số tiền từ tài khoản tiền gửi của cá nhân, tổ chức vi phạm để thực hiện việc cưỡng chế. Hiện nay, Nghị định số 166/2013/NĐ-CP không có bất cứ chế tài nào đối với cá nhân, tổ chức vi phạm khi không hợp tác trong việc cung cấp thông tin về tài khoản tiền gửi của họ.
Do đó, kiến nghị cần sớm xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài khoản tiền gửi tại các tổ chức tín dụng của cá nhân, tổ chức như cổng thông tin quốc gia về đăng ký giao dịch bảo đảm, đăng ký doanh nghiệp để có cơ chế kiểm tra thông tin về tài khoản tiền gửi của cá nhân, tổ chức vi phạm khi áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền từ tài khoản. Bên cạnh đó, cần xem xét bổ sung biện pháp “phong tỏa tài khoản” của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế và trao cho những người có thẩm quyền cưỡng chế áp dụng biện pháp này nhằm hạn chế tình trạng cá nhân, tổ chức vi phạm tẩu tán số tiền gửi trong tài khoản. Đồng thời, để bảo đảm cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế, các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc trách nhiệm cung cấp thông tin về tài khoản tiền gửi cũng như trích chuyển số tiền bị khấu trừ để tổ chức thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đòi hỏi phải xây dựng một hành lang pháp lý cụ thể, rõ ràng về các biện pháp xử lý đối với các chủ thể vi phạm.
+ Biện pháp kê biên tài sản: việc xác định giá trị tài sản “tương ứng” với số tiền bị xử phạt để cưỡng chế kê biên chưa có tiêu chí xác định. Đồng thời, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xử phạt vi phạm hành chính, Điều 19 Nghị định số 166/2013/NĐ-CP quy định một số loại tài sản không được kê biên. Tuy nhiên, người vi phạm lại lợi dụng các quy định này để tẩu tán tài sản kê biên hoặc thực hiện các giao dịch như cầm cố, thế chấp tài sản kê biên để không bị cưỡng chế. Do đó việc áp dụng biện pháp này gặp rất nhiều khó khăn trong thực tế. Kiến nghị cần ban hành một Nghị định riêng biệt để quy định về xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến việc tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt. Trong trường hợp hành vi vi phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng các nhà làm luật có thể bổ sung các tội danh mới trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để có cơ sở pháp lý rõ ràng khi xử lý các trường hợp này trên thực tế nhằm tăng tính trừng trị, răn đe để các biện pháp cưỡng chế được áp dụng hiệu quả.
- Có ý kiến đề nghị dự thảo Luật cần quy định rõ hơn về trình tự, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan khi thực hiện quyết định cưỡng chế xử lý vi phạm hành chính nhằm đảm bảo tính khả thi khi áp dụng trong thực tế.
9.7. Một số ý kiến góp ý khác:
- Một số ý kiến đề nghị rà soát lại thời gian về ngày và ngày làm việc trong dự thảo luật và Luật hiện hành để quy định cho thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi khi áp dụng trong thực tế.
- Có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật sử dụng nhiều cách diễn đạt về thời hạn nhưng có cùng nghĩa, như: “thời hạn là...” (điểm a khoản 1 Điều 66); “thời hạn không quá...” (khoản 2 Điều 76; khoản 3 Điều 122; khoản 8 Điều 125); “thời hạn không được quá...” (khoản 3 Điều 122; khoản 8 Điều 125); thời hạn tối đa là...” (điểm b khoản 1 Điều 66); trong thời hạn...” (khoản 2 Điều 76; khoản 5 Điều 80). Đề nghị xem xét, sử dụng cách diễn đạt đảm bảo tính thống nhất.
- Có ý kiến cho rằng, quy định pháp luật hiện hành chưa có quy định về việc thực hiện sửa đổi bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính trong trường hợp Kết luận thanh tra, Bản án của Tòa án kết luận quyết định xử lý vi phạm hành chính phải được sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định Trong thực tiễn áp dụng thực hiện đang gây khó khăn, lúng túng cho cơ quan, người có thẩm quyền, do đó, đề nghị sớm nghiên cứu bổ sung quy định. Đối với trường hợp này, việc không thực hiện hoặc chấm trễ, không kịp thời còn liên quan đến trách nhiệm của người có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 3, Điều 18 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TPHCM