Để chuẩn bị nội dung cho kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIV, ngày 19/9/2019, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV.
Dưới đây là tổng hợp các ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật:
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1- Về sự cần thiết ban hành Luật
Hầu hết các ý kiến nhất trí cho rằng việc xây dựng dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu hiện tại để giải quyết một số vướng mắc trong công tác tiến hành tố tụng hành chính, dân sự nói chung, nhằm mục tiêu giảm tải cho cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, cần xem xét chặt chẽ về trình tự để tránh xung đột với công tác hòa giải, đối thoại theo các trình tự tố tụng đã được quy định.
Có ý kiến cho rằng, Luật này ban hành sẽ làm phát sinh thêm tổ chức, tốn kém kinh phí hoạt động, làm mất thời gian giải quyết trong khi tính hiệu quả chưa được khẳng định rõ do thời gian thí điểm quá ngắn. Kiến nghị có thể xem xét điều chỉnh các quy định pháp luật hiện hành mà không cần ban hành Luật này.
2- Về tên gọi
Có ý kiến đề nghị tên gọi là Luật Trung tâm hòa giải, đối thoại vì hiện nay đã có Luật Hòa giải ở cơ sở.
3- Về bố cục dự thảo Luật
3.1- Có ý kiến cho rằng nội dung dự thảo Luật chỉ có 30 Điều là còn ít, cần bổ sung các quy định chi tiết hơn về quyền và trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào hoạt động hòa giải, về lưu trữ hồ sơ hòa giải… Ý kiến này cũng cho rằng cần rà soát các luật có liên quan để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, không chồng chéo, ví dụ: Bộ luật tố tụng Dân sự không có quy định khi đương sự nộp đơn thì tổ chức hòa giải; Luật tố tụng Hành chính cũng không có quy định khi công dân nộp đơn thì trong thời hạn bao lâu phải hòa giải… Nếu quy định như dự thảo Luật thì có phù hợp không?
3.2- Nhiều ý kiến đề nghị bổ sung vào dự thảo Luật quy định một Điều về đối tượng áp dụng của Luật.
3.3- Một số ý kiến cho rằng Viện Kiểm sát giữ vai trò quan trọng trong hoạt động hòa giải, đối thoại. Đề nghị xem xét bổ sung vào dự thảo Luật quy định về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
II- GÓP Ý CỤ THỂ
1- Về phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Nhiều ý kiến thống nhất với quan điểm dự thảo Luật chỉ nên giới hạn phạm vi và đối tượng hòa giải, đối thoại tại Tòa án là những tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân mà có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Khoản 2: có ý kiến đề nghị xem lại cụm từ “nhiệm vụ” trong tiêu đề Điều 2 và nội dung khoản 2 vì không phù hợp với văn phong của văn bản pháp luật.
+ Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “kết quả hòa giải, đối thoại” bằng cụm từ “kết quả hòa giải thành”. Khoản 2 viết lại như sau “Luật này có nhiệm vụ giải quyết hiệu quả các tranh chấp, khiếu kiện trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm giá trị pháp lý, hiệu lực công tác thi hành kết quả hoà giải đối thoại thành; góp phần hàn gắn những bất đồng, rạn nứt, ngăn ngừa các tranh chấp, khiếu kiện trong tương lai, tạo sự đồng thuận, xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân; tiết kiệm chi phí của Nhà nước, tổ chức, cá nhân”.
+ Có ý kiến đề nghị không quy định nội dung khoản 2 trong dự thảo Luật.
2- Về giải thích từ ngữ (Điều 2)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung giải thích các khái niệm thế nào là: nhà chuyên môn, chuyên gia, người có uy tín cao trong xã hội;
- Khoản 1, khoản 2: có ý kiến đề nghị dự thảo Luật bổ sung qui định theo hướng xác định thêm hòa giải viên có thể đồng thời là đối thoại viên hay không?
- Khoản 6: có ý kiến đề nghị bổ sung như sau “Các bên tham gia hòa giải là cá nhân, tổ chức, cơ quan có tranh chấp, yêu câu vê dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có), (gọi chung là đương sự) hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ (nếu có)”. Quy định như vậy sẽ phù hợp với quy định tại khoản 13 Điều 70 Bộ Luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 76 Bộ Luật Dân sự năm 2015.
- Khoản 7: có ý kiến đề nghị bổ sung như sau: “Các bên tham gia đối thoại là cá nhân, tổ chức, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó trong khiếu kiện hành chính, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có), (gọi chung là đương sự) hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự người bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ (nêu có)” như vậy sẽ phù hợp với khoản 13 Điều 55 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; điểm a khoản 6 Điều 61 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
3- Về nguyên tắc hòa giải, đối thoại (Điều 3)
Khoản 1: có ý đề nghị cần bổ sung dung khoản 1 nội dung quy định theo hướng điều kiện để hòa giải là phải có đơn yêu cầu hoà giải thì mới hoà giải; đơn hòa giải khác với đơn khởi kiện. Cần phải đảm bảo nguyên tắc hoà giải, đối thoại là các bên tự nguyện tham gia hoà giải vì có những trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và thủ tục rút gọn thì không thể đưa vụ việc ra hoà giải làm mất thời gian của đương sự.
4- Về bảo mật thông tin (Điều 4)
Khoản 4: có ý kiến cho rằng việc bảo mật thông tin trong hòa giải, đối thoại tại Tòa án rất quan trọng, là một trong những ưu điểm nổi bật của dự thảo Luật. Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm thì nên có chế tài cụ thể để đảm bảo tính khả thi của Luật, không nên chỉ có quy định chung chung là bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đề nghị bổ sung như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này thì bị xử lý theo quy định của pháp luật. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn điều khoản này”.
5- Về lệ phí hòa giải, lệ phí đối thoại tại Tòa án (Điều 7)
Hầu hết các ý kiến cho rằng khi đã xác định hòa giải, đối thoại là hoạt động thường xuyên thì cũng cần thu lệ phí đối với biểu/mức thu hợp lý để chia sẻ gánh nặng với ngân sách Nhà nước. Vì vậy, các ý kiến chọn Phương án 2 quy định về lệ phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Khoản 2: có ý kiến đề nghị sửa 2 như sau: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức nộp đơn khởi kiện yêu câu giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, nộp đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn phải chịu lệ phí hòa giải, lệ phí đối thoại, trừ trường hợp không phải chịu, được miễn, giảm theo pháp luật vê lệ phí Tòa án”.
Có 02 ý kiến chọn Phương án 1 nhằm khuyến khích đối thoại, hòa giải tại Tòa án.
6- Về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hòa giải, đối thoại (Điều 9)
Có ý kiến đề nghị bổ sung vào cuối khoản 1 Điều 9 nội dung điểm h quy định như sau: “Tự bảo vệ, nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia hòa giải, đối thoại”.
7- Về tiêu chuẩn Hòa giải viên, Đối thoại viên (Điều 10)
- Có ý kiến rằng ngoài đối tượng là người có chức danh tư pháp đã nghỉ hưu thì những người là Luật sư, chuyên gia, nhà chuyên môn khác phải có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác mới có thể được xem xét làm Hòa giải viên, Đối thoại viên. Tuy nhiên, đa số đối tượng được chọn là người đã về hưu, hết tuổi lao động theo quy định nên đề nghị thay cụm từ “bổ nhiệm” bằng cụm từ “công nhận” đối với những người đủ tiêu chuẩn.
- Điểm b khoản 1: có ý kiến đề nghị xem lại quy định về tiêu chuẩn Hòa giải viên, Đối thoại viên “dưới 70 tuổi” như vậy là hạn chế số tuổi vì có những người lớn tuổi sức khỏe vẫn tốt, có những người trẻ nhưng không đủ sức khỏe. Đề nghị cần quy định theo hướng nếu đảm bảo sức khỏe thì đủ điều kiện để xem xét.
- Khoản 2
+ Điểm b: có ý kiến đề nghị xem lại nội dung điểm b khoản 2 và đề nghị bổ sung quy định theo hướng: Luật sư, chuyên gia, nhà chuyên môn khác có bằng cử nhân Luật trở lên và có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác như vậy sẽ đảm bảo chất lượng của đội ngũ Hòa giải viên, Đối thoại viên khi được bổ nhiệm.
+ Điểm c: có ý kiến đề nghị bỏ điểm c khoản 2 Điều 10 vì quy định khó khả thi khi thực hiện.
8- Về miễn nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên (Điều 12)
Có ý kiến đề nghị bổ sung vào cuối khoản 1 Điều 12 nội dung quy định “Trong trường hợp Hòa giải viên, Đối thoại viên bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì đương nhiên mất tư cách Hòa giải viên, Đối thoại viên”.
9- Về quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên, Đối thoại viên (Điều 13)
- Khoản 2:
+ Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung điểm d như sau: “Tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác" để phù hợp với một trong những nguyên tắc hòa giải, đối thoại quy định tại khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật.
+ Có ý kiến đề nghị bổ sung vào cuối khoản 2 nội dung điểm i quy định như sau: "Không được sử dụng, khai thác những thông tin, tài liệu mà mình biết được để mưu cầu, phục vụ lợi ích, riêng tư'' để nhằm đảm bảo Hòa giải viên, Đối thoại viên không vì lợi ích, việc riêng tư mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của một hay các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
- Điểm a khoản 1 Điều 13 và điểm a khoản 2 Điều 13 quy định Hòa giải viên, Đối thoại viên vừa có quyền và nghĩa vụ tiến hành hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này. Như vậy, đề nghị dự thảo Luật cần phải làm rõ Hoà giải viên, Đối thoại viên có quyền từ chối tiến hành hoà giải, đối thoại nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm g, h, khoản 2, Điều 13.
10- Về trình tự nhận, phân công, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án (Điều 16)
Có ý kiến cho rằng nội dung Điều 16 có quy định “Thẩm phán làm công tác hòa giải”, tuy nhiên thiếu quy định về trách nhiệm của Thẩm phán trong công tác hòa giải.
Theo điểm b khoản 4 Điều 16 dự thảo Luật thì trường hợp không tiến hành hòa giải đối thoại được theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính là trường hợp một trong các bên đương sự yêu cầu không tiến hành hòa giải. Thực tiễn hiện nay, nếu đương sự có đơn yêu cầu không tiến hành hành hòa giải, đối thoại nộp kèm đơn khởi kiện thì không tiến hành hòa giải, đối thoại trong trường hợp này mà phải thụ lý đơn khởi kiện giải quyết theo thủ tục chung. Vì tâm lý đương sự luôn cho rằng không hòa giải được mới yêu cầu Tòa giải quyết, thủ tục hòa giải gây mất thời gian của đương sự. Như vậy, trường hợp nêu trên có ảnh hưởng đến phạm vi điều chỉnh và hiệu quả của Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án hay không?
Ngoài ra thực tế trong thời gian thí điểm hoà giải ở một số Toà địa phương còn xuất hiện trường hợp khi nguyên đơn khởi kiện vụ án dân sự nhưng kèm theo đơn khởi kiện thì nguyên đơn còn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì Toà án phải xem xét đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thời hạn 3 ngày và cũng đồng thời phải xem xét thụ lý đơn khởi kiện theo trình tự tố tụng dân sự hoặc hành chính. Dự luật chưa quy định trường hợp này dẫn đến việc không thống nhất trong việc giải quyết đơn trong trường hợp trên. Đề nghị bổ sung thêm trường hợp này vào trường hợp không tiến hành hoà giải, đối thoại được.
Khoản 3: có ý kiến đề nghị cần quy định thời gian phân công làm công tác hòa giải nên rút ngắn lại hơn tránh trường hợp ảnh hưởng đến tâm lý các bên có liên quan.
11- Về thời hạn hòa giải, đối thoại (Điều 17)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 thì thời hạn hòa giải, đối thoại tối đa không quá 30 ngày nhưng theo khoản 2 Điều 17 thì thời hạn hòa giải, đối thoại có thể kéo dài theo đề nghị của các bên. Vậy thời hạn tối đa là bao nhiêu? Các bên cùng thống nhất kéo dài thời hạn hay chỉ cần một bên yêu cầu là được chấp nhận? Và được đề nghị kéo dài thời hạn hòa giải, đối thoại bao nhiêu lần?
Đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thời hạn hòa giải, đối thoại được tính như thế nào? Trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam nếu hoà giải, đối thoại theo phương pháp quy định tại khoản 3 Điều 19 dự thảo Luật mà hoà giải được với nhau nhưng trở ngại về mặt địa lý, không có người đại diện ủy quyền ở Việt Nam thì để lập được biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại mà không có một bên ký biên bản thì giải quyết như thế nào? Nếu người nước ngoài phải về nước ký hoặc làm thủ tục uỷ quyền cho người trong nước ký thì thời gian này có thể quá thời hạn theo quy định tại Điều 17 dự thảo Luật này. Đề nghị nghiên cứu bổ sung các điều kiện loại trừ thời hạn theo các quy định trên.
. 12- Về phương thức hòa giải, đối thoại (Điều 19)
Khoản 2:
+ Có ý kiến đề nghị chuyển khoản 2 vào Điều 21 dự thảo Luật vì nội dung này phù hợp với quy định của Điều 21 về địa điểm phiên hòa giải, đối thoại.
+ Có ý kiến đề nghị sửa như sau “Việc hòa giải, đối thoại được tiến hành tại trụ sở Tòa án, trường hợp các bên thống nhất lựa chọn ngoài trụ sở Tòa án tự chịu chi phí và được Hòa giải viên, đối thoại viên đồng ý…”.
13- Về hoãn phiên ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại (Điều 24)
Có ý kiến cho rằng nội dung Điều 24 còn chung chung, khó thực hiện. Đề nghị nghiên cứu quy định cụ thể hơn theo hướng về cách thức thủ tục lần thứ 1, thứ 2 là như thế nào? Lý do khách quan là lý do gì?
14- Về biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại (Điều 25)
Có ý kiến cho rằng nội dung Điều 25 dự thảo Luật có liên quan đến Luật Trợ giúp pháp lý, vậy trợ giúp pháp lý có mở rộng ra cho hòa giải đối thoại nay không? Đề nghị cần nghiên cứu mở rộng quy định này trong dự thảo Luật.
15- Về quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành (Điều 26)
- Khoản 1: có ý kiến cho rằng quy định nếu thực hiện như điểm b khoản 1 là khó khả thi vì để được người thứ ba đồng ý thì phải tống đạt biên bản ghi nhận kết quả hoà giải, đối thoại cho họ và người thứ ba phải có văn bản đồng ý, hoặc người thứ ba nhận được nhưng không có ý kiến gì thì dự luật lại chưa điều chỉnh. Do đó một mặt thời hạn này khó thực hiện, mặt khác Thẩm phán phán ký xác nhận vào biên bản ghi nhận kết quả hoà giải, đối thoại có được ra quyết định công nhận kết quả hoà giải thành hay không khi người thứ ba không có ý kiến gì. Cần quy định chặt chẽ tránh làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba có liên quan.
Ý kiến này đề nghị sửa khoản 1 Điều 1như sau: “Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại hoặc kế từ ngày người thứ ba nhận được biên bản mà không có văn bản đồng ý hay phản đối, Thẩm phán đã ký xác nhận vào biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành khi có đủ các điều kiện sau:…”.
Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể trong dự thảo Luật trường hợp nào quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm vì thời hạn yêu cầu thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm là hoàn toàn khác nhau theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính.
16- Về chấm dứt hòa giải, đối thoại (Điều 27)
Có ý kiến đề nghị cần xem xét việc đưa trường hợp một trong các bên tham gia hòa giải, đối thoại yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì có phải hoãn phiên ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại (Điều 24) và chấm dứt hòa giải, đối thoại (Điều 27) không? Vì khi biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng thì tính chất của vụ việc sẽ thay đổi làm cho nội dung hòa giải, đối thoại thành khác với mong muốn ban đầu của các bên.
17- Về xử lý hòa giải, đối thoại không thành, không tiến hành hòa giải, đối thoại được (Điều 28)
Khoản 1 quy định “…Thẩm phán đã tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại không được tham gia giải quyết vụ việc đó”. Tuy nhiên có những trường hợp phát sinh như trong quá trình tham gia đó giữa Thẩm phán tham gia công tác và Hoà giải viên, Đối thoại viên có sự xung đột với nhau thì sẽ giải quyết như thế nào, bởi vì Thẩm phán là người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tố tụng, trong quá trình giải quyết có xảy ra hành vi vi phạm pháp luật sẽ giải quyết như thế nào. Đề nghị cần bổ sung quy định về quyền và nhiệm vụ của Thẩm phán tham gia công tác hoà giải.