Để chuẩn bị nội dung cho kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIV, ngày 23/9/2019, Đoàn đại biểu Quốc hội TP.Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng sẽ được Quốc hội sẽ cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV.
Dưới đây là tổng hợp các ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật:
A- Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng số 50/2014/QH13
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1- Hầu hết các ý kiến cho rằng Luật Xây dựng năm 2014 đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, phát triển thị trường bất động sản, chất lượng phát triển đô thị và các công trình xây dựng, nhà ở. Nhưng sau hơn 4 năm thực hiện, Luật Xây dựng đã bộc lộ một số hạn chế không còn phù hợp nên rất cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng với các nội dung được sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Luật thì chưa tháo gỡ được toàn diện, triệt để các vấn đề khó khăn, vướng mắc, bất cập hiện nay trong lĩnh vực xây dựng. Đặc biệt là cần rà soát lại quy định của các luật có liên quan như Luật Đất đai, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Quy hoạch để đảm bảo không chồng chéo, nếu sửa đổi, bổ sung Luật Xây dựng mà không sửa đổi các luật có liên quan sẽ không giải quyết được hết những vướng mắc trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch, xây dựng.
2- Nhiều ý kiến cho rằng để tránh cách hiểu không thống nhất trong thực thi pháp luật, đề nghị bổ sung nguyên tắc áp dụng theo hướng ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc ưu tiên áp dụng pháp luật xây dựng điều chỉnh lĩnh vực hoạt động xây dựng vào Luật Xây dựng.
3- Một số ý kiến cho rằng cần thiết nghiên cứu xem xét quy định theo hướng quy trình cấp giấy phép xây dựng phải bao gồm trong đó cả quy trình thẩm định thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật. Tuy nhiên, theo pháp luật xây dựng hiện nay thì lại tách thành 03 quy trình: (i) Quy trình thẩm định thiết kế cơ sở; (ii) Quy trình thẩm định thiết kế kỹ thuật; (iii) Quy trình cấp giấy phép xây dựng là chưa phù hợp. Các ý kiến này đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 78; khoản 3 Điều 82; khoản 4 Điều 91 theo hướng tích hợp"quy trình cấp giấy phép xây dựng" đồng thời với công tác thẩm định thiết kế cơ sở. Phân cấp và giao quyền cho cơ quan chuyên môn về xây dựng (Sở Xây dựng) thẩm định thiết kế cơ sở và cấp giấy phép xây dựng các công trình xây dựng trên địa bàn, trừ công trình cấp đặc biệt, công trình theo tuyến hoặc công trình có liên quan đến hai tỉnh, hoặc công trình có ảnh hưởng đến an toàn, lợi ích cộng đồng.
Trường hợp cơ quan chuyên môn về xây dựng (Sở Xây dựng) có yêu cầu thì Bộ Xây dựng thực hiện thẩm định thiết kế cơ sở công trình xây dựng (nhằm hỗ trợ một số Sở Xây dựng chưa đảm bảo năng lực thẩm định thiết kế xây dựng công trình cấp I, hoặc công trình có kỹ thuật phức tạp...). Về lâu dài, đề nghị xã hội hóa công tác thẩm định thiết kế cơ sở. Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm ban hành Quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn thiết kế và thực hiện công tác hậu kiểm, để nâng cao vai trò và hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước ngành xây dựng; Bộ Xây dựng chỉ thẩm định thiết kế cơ sở đối với công trình đặc biệt, hoặc có ảnh hưởng đến an toàn, lợi ích cộng đồng.
4- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào dự thảo Luật giải thích cụ thể các khái niệm về: nhà đầu tư; chủ đầu tư công; vốn nhà nước ngoài đầu tư công; đầu tư theo phương thức đối tác công tư; vốn khác.
5- Một số ý kiến đề nghị cần sớm sửa đổi, bổ sung các quy định về lập, điều chỉnh quy hoạch theo hướng như sau:
(1) Quy định chặt chẽ quy trình thực hiện lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng, kể cả quy hoạch vùng, quy hoạch chung xây dựng cấp tỉnh, quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000, quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500, thiết kế đô thị. Trong quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, đề nghị không lệ thuộc vào ranh giới hành chính của các địa phương.
(2) Lập quy hoạch xây dựng đô thị đối với đô thị đặc biệt theo định hướng đô thị bao gồm đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh đối với đô thị đặc biệt, đô thị trung tâm của Vùng, để sử dụng tiết kiệm, hiệu quả quỹ đất đô thị và tăng tính liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong vùng.
(3) Định hướng quy hoạch, thiết kế theo hướng phát triển đô thị xanh và thông minh, dự án xanh và thông minh, căn hộ (nhà ở) thông minh.
(4) Các cơ quan có thẩm quyền kiếm soát chặt chẽ để đảm bảo chất lượng công tác điều chỉnh quy hoạch xây dựng, nhất là trong trường hợp xem xét yêu cầu điều chỉnh quy hoạch của nhà đầu tư. Trong trường hợp điều chỉnh quy hoạch dẫn đến hiệu quả kinh tế của dự án tăng lên, thì chủ đầu tư có nghĩa vụ thực hiện nộp bổ sung vào ngân sách nhà nước, để phục vụ lọi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
(5) Cần sớm có cơ quan điều phối cấp Vùng để nâng cao hiệu quả thực hiện quy hoạch vùng.
(6) Có giải pháp nâng cao chất lượng công tác thực hiện quy hoạch, chất lượng các kế hoạch thực hiện quy hoạch, đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ và tính khả thi.
6- Đề nghị xem xét, sửa đổi thêm một số nội dung:
6.1- Về giải thích từ ngữ (Điều 3)
- Khoản 14: có ý kiến đề nghị cần xem lại quy định tại khoản 14 theo hướng cần thiết phân biệt nguồn vốn đầu tư công, vốn Nhà nước ngoài ngân sách, vốn các dự án PPP, với các dự án đầu tư xây dựng sử dụng nguồn vốn tư nhân, do doanh nghiệp tư nhân làm chủ đầu tư (dự án đầu tư). Đối với các "dự án đầu tư" thì Nhà nước chỉ nên quản lý, kiểm soát để đảm bảo sự phù hợp với quy hoạch, quy chuẩn, tiêu chuẩn về xây dựng, thiết kế, an toàn, bảo hiểm. Chủ đầu tư "dự án đầu tư" phải tự chịu trách nhiệm về các nội dung cụ thể của dự án. Do vậy, đối với "dự án đầu tư", đề nghị cơ quan chuyên môn về xây dựng chỉ thẩm định nội dung "thiết kế cơ sở", không cần thiết phải thẩm định dự án như đối với các dự án công, hoặc dự án có sử dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách, hoặc dự án PPP lớn.
6.2- Về điều kiện khởi công xây dựng công trình (Điều 107)
Khoản 2: có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Việc khởi công xây dựng nhà ở riêng lẻ chỉ cần đáp ứng điều kiện quy định tại điểm b và e khoản 1 Điều này” để bắt buộc chủ đầu tư phải gửi thông báo việc khởi công cho cơ quan quản lý trật tự xây dựng được biết để lập hồ sơ kiểm tra, theo dõi.
6.3- Về bảo lãnh thanh toán trong thực hiện hợp đồng xây dựng
Có ý kiến cho rằng để hạn chế tình trạng nợ đọng rất lớn, nợ khó đòi trong lĩnh vực nhận thầu thi công trong thời gian qua và để đảm bảo tính công bằng, đề nghị bổ sung quy định bắt buộc bên giao thầu phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán trong thực hiện hợp đồng xây dựng đối với nhà thầu.
II- GÓP Ý CỤ THỂ
1- Sửa đổi, bổ sung các khoản 15a Điều 3
Khoản 13: có ý kiến đề nghị thay từ “Sở” bằng cụm từ “Cơ quan”. Khoản 13 viết lại như sau: “Cơ quan chuyên môn về xây dựng là cơ quan chuyên môn trực thuộc Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành; Cơ quan quản lý công trình xây dựng chuyên ngành; Phòng có chức năng quản lý xây dựng thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ban quản lý khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao.”
Khoản 15a: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "tái phát triển đô thị" vào cuối nội dung khoản 15a Điều 3 nhằm thể hiện rõ mục tiêu tái thiết đô thị đối với các khu vực thuộc đô thị cũ. Khoản 15a viết lại như sau "Dự án đầu tư xây dựng khu đô thị là dự án đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, nhà ở và các công trình khác theo quy hoạch xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt để xây dựng mới, xây dựng lại hoặc cải tạo, chỉnh trang tái phát triển đô thị".
2- Về sửa đổi, bổ sung Điều 4
Khoản 3: có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Tuân thủ quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế xây dựng được duyệt và các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc; đảm bảo an toàn sinh mạng, sức khỏe con người, nhu cầu tiếp cận sử dụng công trình thuận lợi cho người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em”
Khoản 9: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “và thông minh” sau từ “xanh” để đáp ứng xu thế phát triển xanh và thông minh của đô thị. Khoản 9 viết lại như sau: “Đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong hoạt động đầu tư xây dựng; tăng cường phát triển khu đô thị xanh, khu đô thị thông minh, công trình xanh và thông minh, công trình xây dựng tiết kiệm năng lượng; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đầu tư xây dựng theo lộ trình do Chính phủ quy định”.
3- Sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 2 Điều 7
Có ý kiến đề nghị sửa đổi thứ tự cụm từ "chủ đầu tư cấp 1 là chủ đầu tư dự án khu đô thị" thành "chủ đầu tư dự án khu đô thị là chủ đầu tư cấp 1" để sử dụng thống nhất khái niệm "chủ đầu tư" trong Luật Nhà ở, Luật Quy hoạch đô thị (vì trong Luật Nhà ở; Luật Quy hoạch đô thị không có quy định "chủ đầu tư cấp 1"). Riêng Luật Đầu tư chỉ có khái niệm "nhà đầu tư" nên cần bổ sung khái niệm "chủ đầu tư" và quy định lựa chọn "chủ đầu tư" vào Luật Đầu tư để đảm bảo tính hệ thống của hệ thống pháp luật. Luật Đầu tư cũng không có quy định về "lựa chọn chủ đầu tư", mà chỉ có quy định về "Quyết định chủ trương đầu tư" (trong đó, chỉ ghi tên "nhà đầu tư") và cấp "Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư" cho nhà đầu tư nước ngoài.
Điểm d khoản 2 Điều 7 sửa như sau “Đối với dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, chủ đầu tư dự án khu đô thị là chủ đầu tư cấp 1 được cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn hoặc chấp thuận theo quy định của pháp luật. Chủ đầu tư thứ cấp là chủ đầu tư được chủ đầu tư cấp 1 lựa chọn theo quy định pháp luật để tham gia đầu tư vào dự án đầu tư xây dựng khu đô thị".
4- Sửa đổi, bổ sung Điều 25
Điểm a khoản 1: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “xây dựng” vào sau cụm từ “quy hoạch”. Điểm a viết lại như sau: “Các khu vực trong khu chức năng đã có quy hoạch xây dựng chung được phê duyệt”.
5- Sửa đổi, bổ sung Điều 58
Khoản 1: có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 58 nội dung “Chính phủ quy định chi tiết về dự án có quy mô lớn hoặc có ảnh hưởng đến an toàn và lợi ích công cộng” để phù hợp với dự thảo Nghị định về quản lý đầu tư xây dựng.
Khoản 3: có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Đối với dự án đầu tư xây dựng quy định tại điểm c khoản 1 Điều này, cơ quan chuyên môn về xây dựng thực hiện thẩm định các nội dung tại các điểm a,b,c và d khoản 2 Điều này” .
6- Sửa đổi, bổ sung Điều 83a: Thẩm định thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở của chủ đầu tư
Điểm c khoản 1: có ý kiến đề nghị xem lại nội dung khoản 1 Điều 83a vì “công trình xây dựng sử dụng vốn khác có quy mô mô lớn” mà không có định lượng để xác định “có quy mô lớn” thì rất khó trong áp dụng. Hơn nữa, đây là “dự án tư” nên đề nghị chủ đầu tư chịu trách nhiệm thực hiện thẩm tra, thẩm định thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở. Điểm c khoản 1 sửa lại như sau: “Công trình xây dựng sử dụng vốn khác có ảnh hưởng lớn đến an toàn, lợi ích cộng đồng được xây dựng tại khu vực không có quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng khu chức năng hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn”.
7- Sửa đổi, bổ sung Điều 89: Quy định chung về cấp giấy phép xây dựng và quản lý trật tự xây dựng
- Khoản 2 quy định 10 trường hợp công trình được miễn Giấy phép xây dựng, trong đó có nhà ở thuộc dự án nhà ở có quy mô dưới 7 tầng và tổng diện tích sàn dưới 500m2 (đã có quy hoạch 1/500 và thiết kế mẫu nhà). Quy định này chưa phù hợp thực tế và chưa hợp lý, ví dụ: nhà liên kế có diện tích xây dựng 100m2, có 7 tầng (bao gồm tầng hầm) thì tổng diện tích sàn khoảng 700m2 (trên 500m2 sàn), mà mỗi nhà đều phải xin Giấy phép xây dựng thì làm tăng khối lượng công việc của cơ quan nhà nước. Ý kiến này cho rằng không cần thiết cấp Giấp phép xây dựng nhà ở riêng lẻ trong dự án. Đề nghị sửa khoản 2 Điều 89 theo hướng bổ sung các trường hợp được miễn cấp giấy phép xây dựng như sau:
(1) Đối với các công trình đã được Cục Quản lý hoạt động xây dựng - Bộ Xây dựng thẩm định thiết kế cơ sở và đã được chủ đầu tư thẳm định thiết kế kỹ thuật.
(2) Các công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình xây dựng thuộc các dự án nhà ở đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 (hoặc bản vẽ quy hoạch tổng mặt bằng), đã được thẩm định thiết kế cơ sở của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đã được chủ đầu tư thẩm định thiết kế kỹ thuật.
(3) Các công trình xây dựng nhà ở đơn lẻ (nhà liên kế, biệt thự) trong dự án nhà ở đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định thiết kế cơ sở,
(4) Các công trình xây dựng nhà ở đơn lẻ của cá nhân, hộ gia đình trong đô thị, đã có quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Điểm b khoản 2: có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể về các yêu cầu: an toàn, mỹ quan đô thị và phòng cháy chữa cháy, môi trường … để tạo kiến trúc, cảnh quan đô thị.
- Điểm c khoản 2:
+ Có ý kiến đề nghị cần bổ sung quy định hướng dẫn đối với công trình sửa chữa, cải tạo để có cơ sở thực hiện và quản lý theo đúng quy định vì thực tế có những trường hợp đề nghị cấp Giấy phép xây dựng để tháo dỡ công trình cũ xây dựng lại công trình mới nhưng chủ đầu tư chỉ sửa chữa, cơi nới trên phần hiện trạng nhà cũ (bỏ qua công tác khảo sát, kiểm định đánh giá khả năng chịu lực của kết cấu hiện trạng công trình để có phương án gia cố, thi công thích hợp nên rất nguy hiểm trong quá trình thi công và cho người sử dụng).
+ Có ý kiến đề nghị sửa nội dung điểm c khoản 2 như sau: “Công trình sửa chữa, cải tạo bên trong công trình hoặc công trình sửa chữa mặt ngoài không tiếp giáp với đường trong đô thị có yêu cầu về quản lý kiến trúc; nội dung sửa chữa, cải tạo bên trong công trình không làm thay đổi kết cấu chịu lực của công trình, phù hợp với yêu cầu về bảo vệ môi trường và an toàn phòng chống cháy nổ” vì thực tiễn người dân sửa chữa công trình thường nâng nền, nâng mái, sàn gỗ sửa thành sàn bê tông cốt thép nhưng cũng không làm ảnh hưởng đến an toàn của kết cấu công trình nhưng khi hoàn công thì giấy phép ghi theo nội dung xin phép ban đầu vì vậy không làm được thủ tục hoàn công theo quy định. Trường hợp sửa chữa có thay đổi kết cấu chịu lực thì đề nghị có quy định trong luật để giải quyết nhu cầu cho người dân.
- Điểm đ khoản 2: có ý kiến đề nghị thay cụm từ “công trình” bằng từ “và” để quy định được rõ nghĩa hơn. Điểm đ khoản 2 viết lại như sau: “Công trình xây dựng trên địa bàn hai tỉnh trở lên và xây dựng theo tuyến ngoài đô thị phù hợp với quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”.
- Điểm h khoản 2: quy định này không phù hợp với tình hình quản lý xây dựng tại các đô thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh. Nông thôn của thành phố Hồ Chí Minh là nông thôn thuộc đô thị loại đặc biệt. Nếu không cấp phép xây dựng ở khu vực nông thôn sẽ dẫn đến tình trạng xây cất tràn lan, rất khó khăn trong quản lý nên nhiều ý kiến đề nghị vẫn phải xem xét cấp giấy phép xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ ở nông thôn.
Có ý kiến đề nghị cần bổ sung quy định hướng dẫn việc phân định “khu vực nông thôn” và “khu vực đô thị”, làm rõ khái niệm đô thị là đô thị hiện hữu hay đô thị phát triển mới để người dân, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện quyền và trách nhiệm của mình theo đúng quy định.
- Khoản 4: có ý kiến cho rằng theo khoản 4 Điều 89 chỉ có công trình cấp đặc biệt và cấp 1 mới được cấp Giấy phép xây dựng theo giai đoạn. Đề nghị sửa đổi khoản 4 Điều 89 theo hướng bổ sung "công trình cấp 2"; và "phần ngầm của công trình xây dựng khi đã có thiết kế cơ sở được thẩm định" thuộc trường hợp được cấp Giấy phép xây dựng theo giai đoạn, nhằm cải cách thủ tục hành chính về cấp giấy phép xây dựng, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư triển khai thực hiện dự án. Khoản 4 sửa lại như sau “Công trình được cấp Giấy phép xây dựng theo giai đoạn khi đã có thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở của từng giai đoạn được thẩm định và hoặc phê duyệt theo quy định của Luật này".
- Khoản 7: có ý kiến đề nghị bổ sung vào cuối khoản 7 quy định “xử lý vi phạm xây dựng”. Khoản 7 viết lại như sau: “Chính phủ quy định chi tiết về giấy phép xây dựng và quản lý trật tự xây dựng, xử lý vi phạm xây dựng”.
8- Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 94
Có ý kiến cho rằng nội dung khoản 3 Điều 94 là thừa vì đã được quy định tại khoản 1 Điều 95, Điều 96, Điều 97 Luật Xây dựng và Nghị định 53 cũng đã quy định các loại giấy tờ cấp phép xây dựng. Đề nghị bỏ khoản 3 Điều 94 của dự thảo Luật.
9- Sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 1 Điều 102
Có ý kiến đề nghị sửa thời gian giải quyết cấp phép là 20 ngày làm việc và 15 ngày làm việc để thống nhất với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 102.
10- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 107
- Điểm đ khoản 1: có ý kiến đề nghị bổ sung vào nội dung điểm đ khoản 1 quy định “được bố trí vốn đủ theo tiến độ xây dựng công trình” nhằm tránh trường hợp các dự án, công trình không bố trí đủ vốn nhưng vẫn khởi công. Thực tế, việc rào chắn công trình sau khởi công nhưng không thi công hoặc chậm tiến độ vì không có vốn gây ảnh hưởng đến hoạt động của cộng đồng, dân cư và gây bức xúc trong xã hội.
- Điểm e khoản 1: có ý kiến sửa như sau: “Chủ đầu tư gửi thông báo về việc khởi công xây dựng (kèm các pháp lý về nhà đất liên quan) đến cơ quan quản lý trật tự xây dựng theo phân cấp tại địa phương trước thời điểm khởi công xây dựng ít nhất 07 ngày”.
11- Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 118
Một số ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể hơn nữa, nội dung khoản 2 Điều 118 dự thảo Luật khó khả thi khi thực hiện.
12- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 124
Có ý kiến cho rằng để đảm bảo quy định của pháp luật phòng cháy chữa cháy đối với các công trình thuộc diện thẩm duyệt thiết kế về phòng cháy chữa cháy. Đề nghị bổ sung vào nội dung khoản 1 quy định “Được nghiệm thu về phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật phòng cháy chữa cháy”
13- Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 136
Điểm b khoản 3: có ý kiến đề nghị thay cụm từ “vận dụng” bằng “hướng dẫn” của hệ thống định mức để tránh trường hợp các bên liên quan vận dụng một cách “quá mức” làm gia tăng chi phí đầu tư xây dựng. Điểm b viết lại như sau: “Đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công, dự án PPP, chủ đầu tư căn cứ các định về quản lý chi phí, hướng dẫn hệ thống định mức được ban hành để xác định và quản lý chi phí đầu tư xây dựng”.
14- Sửa đổi, bổ sung khoản 3, khoản 4 Điều 148
Khoản 3, khoản 4: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “kiểm định xây dựng” vào nội dung những chức danh, cá nhân hành nghề hoạt động xây dựng phải có chứng chỉ hành nghề và tổ chức tham gia hoạt động xây dựng phải có chứng chỉ năng lực hoạt động phù hợp Điều 148 và Điều 155 Luật Xây dựng năm 2014.
B- Góp ý về dự thảo Nghị định về quản lý dự án đầu tư xây dựng:
1- Có ý kiến cho rằng nội dung dự thảo Nghị định về quản lý dự án đầu tư xây dựng chưa phù hợp, tương thích với nội dung dự thảo Luật. Ví dụ: Khoản (2.a) Điều 22 Dự thảo Nghị định quy định "Cơ quan chuyên môn về xây dựng thuộc Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành thẩm định công trình xây dựng nhóm A; công trình xây dựng cấp 1 trở lên...". Nội dung này trùng hợp với nội dung Khoản (5.a) Điều 10; Khoản (l.a) Điểu 26 Nghị định 59/2015/NĐ-CP, mà nội dung này đã được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 5 và Khoản 11 Điều 1 Nghị định 42/2017/NĐ-CP.
2- Điều 5: Về phân loại dự án đầu tư xây dựng
Hiện đang có sự phân cấp, tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng, sẽ có báo cáo kinh tế kỹ thuật, nhưng nhận thấy các công trình trình từ 18-20 tỷ đồng vẫn nằm trong kết cấu và mức độ kỹ thuật này. Đề nghị cần phải cập nhật tổng mức đầu tư bao gồm cả yếu tố trượt giá.
3- Điều 13: Điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng, thiết kế cơ sở
Điểm b khoản 1: quy định như nội dung điểm b khoản 1 chưa đầy đủ. Hiện nay điều chỉnh thiết kế cơ sở phụ thuộc vào nhu cầu của nhà đầu tư mà không phụ thuộc vào quy hoạch xây dựng. Đề nghị cần bổ sung quy định theo hướng "Nếu yêu cầu của nhà đầu tư điều chỉnh thiết kế cơ sở thì vẫn được phép làm theo thủ tục quy định”.
4- Điều 14: Hình thức tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng
Khoản 3 quy định “chủ đầu tư có trách nhiệm ký hợp đồng thuê Ban quản lý dự án chuyên ngành hoặc Ban quản lý dự án khu vực để thực hiện quản lý dự án theo quy định, đối với trường hợp người quy định đầu tư giao cơ quan quản lý sử dụng vốn để đầu tư xây dựng các công trình là chủ đầu tư tại khoản 3 Điều 14” là chưa phù hợp vì không thể gọi là “có trách nhiệm”. Đề nghị điều chỉnh lại “Đối với dự án đầu tư xây dựng quy định tại khoản 2 điều này, trong trường hợp người quyết định đầu tư giao cơ quan, tổ chức quản lý sử dụng vốn để đầu tư xây dựng các công trình là chủ đầu tư thì chủ đầu tư sử dụng bộ máy chuyên môn trực thuộc có đầy đủ chức năng quản lý dự án đầu tư xây dựng hoặc ký hợp đồng Ban quản lý dự án” như vậy sẽ phù hợp hơn.
5- Điều 34: đề nghị sửa tiêu đề như sau: Nghiệm thu đưa công trình vào khai thác sử dụng.
Trong thành phần hồ sơ nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng cần bổ sung hồ sơ nghiệm thu về phóng cháy chữa cháy của cơ quan phòng cháy chữa cháy có thẩm quyền (nếu có) để đảm bảo đúng quy định của Luật Phòng cháy, chữa cháy và an toàn cho người dân.
6- Điều 37: Điều kiện cấp giấp phép xây dựng
Khoản 2 quy định “Trường hợp dự án đầu tư xây dựng trong đô thị tại khu vực chưa có quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc không yêu cầu lập quy hoạch chi tiết theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị thì giấy phép quy hoạch xây dựng hoặc thông tin quy hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp là cơ sở để xem xét cấp giấy phép xây dựng” đây là điểm vướng mắc. Hiện nay Luật Quy hoạch mới đã bỏ giấy phép quy hoạch, Sở Quy hoạch kiến trúc cũng không cấp giấy phép quy hoạch. Đề nghị nên bỏ quy định này và lấy thông tin quy hoạch do cơ quan có thẩm quyền cung cấp làm cơ sở để cấp giấy phép xây dựng cho nhà đầu tư.
7- Điều 53: Hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng
Cần bổ sung quy định cấp lại chứng chỉ hành nghề đối với những người sắp hết hạn thay vì cấp mới chứng chỉ để giảm bớt thủ tục này./.