Đăng nhập

 

 

Tổng hợp ý kiến xây dựng các dự án luật
Tổng hợp ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp

 Để chuẩn bị nội dung cho kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIV, ngày 30/9/2019, Đoàn đại biểu Quốc hội TP.Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV.

Dưới đây là tổng hợp các ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật:

I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1. Các ý kiến nhất trí với sự cần thiết phải sửa đổi Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp như tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, theo nội dung dự thảo Luật thì không chỉ sửa một số điều bất cập hiện hành, mà mở rộng nhiều nội dung kể cả sửa từ ngữ, khái niệm, số điều khoản sửa đổi, số điều bổ sung rất nhiều… Vì vậy, nhiều ý kiến đề nghị tách riêng thành 2 dự thảo Luật: Luật sửa đổi, bổ sung  một số điều của Luật Đầu tư và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp. Cách sửa này sẽ phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Trường hợp ban hành Luật sửa đổi, bổ sung cả hai Luật thì nội dung các điều khoản được sửa đổi, bổ sung phải được lập lại toàn bộ (kể cả nội dung không được sửa đổi bổ sung) hoặc  cũng phải lập lại “Tiêu đề” của điều khoản để dễ theo dõi, áp dụng.

2. Luật Đầu tư

Nhiều ý kiến cho rằng các nội dung sửa đổi Luật Đầu tư chưa thể hiện mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân theo Hiến pháp, mà tăng thêm những quy định phức tạp hơn luật hiện hành. Việc sửa đổi bổ sung các điều: 2; 3; 5; 6; 7; 8; 12; 15; 16; 17; 18; 19; 22; 24 … chưa tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi hơn; chưa tập trung tháo gỡ vướng mắc và đồng bộ hóa pháp luật.

Liên quan đến đầu tư FDI tại Điều 26, có ý kiến nhất trí phải kiểm soát chặt chẽ, nhưng vẫn quy định chưa đủ mạnh để hạn chế nhà đầu tư nước ngoài thôn tính những dự án nhạy cảm đối với an ninh quốc phòng và lũng đoạn kinh tế trong nước.

Việc giao quyền cho Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án phát triển kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu chức năng trong các khu kinh tế theo Luật hiện hành thể hiện tính tập quyền, đang gây ách tắc hiện nay, nhưng dự thảo vẫn không sửa đổi mà tái xác định trong dự thảo Luật (Điều 31, khoản 1g và Điều 34, khoản 1).

3. Luật Doanh nghiệp

Các ý kiến cho rằng nhìn chung những nội dung sửa đổi của Luật doanh nghiệp chưa tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự ra đời và hoạt động của doanh nghiệp, mà còn trói buộc hơn.

Một số ý kiến đề nghị bỏ khái niệm “hộ kinh doanh” quy định tại Chương VIIa dự thảo Luật. Các ý kiến này cho rằng chỉ nên quy định chủ thể kinh doanh gồm: pháp nhân và thể nhân hoặc Doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân là thể nhân kinh doanh. Hộ kinh doanh hiện nay về bản chất không khác doanh nghiệp tư nhân, tức là hành vi kinh doanh gắn với nhân thân của người kinh doanh; trách nhiệm tài sản vô hạn.

Đồng thời làm rõ quyền thành lập hộ kinh doanh, các tổ chức, cá nhân theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp có quyền thành lập Hộ kinh doanh hay không?

II- GÓP Ý CỤ THỂ

Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư

1) Sửa đổi, bổ sung Điều 3

Khoản 1a:  có ý kiến đề nghị bổ sung các nội dung nguồn vốn, chủ đầu tư; thay cụm từ “tiến độ” bằng cụm từ “thời gian bắt đầu”, vì tiến độ là nội dung chi tiết của dự án không thể xác định được trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Khoản 1a viết lại như sau: “Chấp thuận chủ trương đầu tư là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận về mục tiêu, địa điểm, quy mô, thời gian bắt đầu, thời hạn và các điều kiện khác để thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại các Điều 30,31 và 32 của Luật này”.

Khoản 5a: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “thực hiện hoạt động đầu tư” vào sau từ “khi” để rõ nghĩa và thống nhất với quy định tại Điều 5 Luật này. Khoản 5a viết lại như sau: “Điều kiện đầu tư kinh doanh là điều kiện cá nhân, tổ chức phải đáp ứng khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện”.

Điểm b, c, d, d, khoản 18: một số ý kiến đề nghị cần xem lại nội dung các điểm b,,c,d,đ khoản 18 Điều 3 vì khái niệm quá rộng (góp vốn mà mở rộng các khoản nợ, hình thức vay nợ, quyền theo hợp đồng, quyền đòi nợ) dễ gặp rủi ro và gây bất ổn trong xã hội.

2) Sửa đổi, bổ sung khoản 2b Điều 4

Có ý kiến đề nghị cần xem lại việc sử dụng cụm từ “pháp luật” trong nội dung Điều 4, như vậy là rất rộng. Đề nghị cần nêu rõ là luật nào? Tránh việc ban hành các văn bản dưới luật làm hạn chế, khó khăn cho quyền của doanh nghiệp.

Điều chỉnh từ “tại” thành cụm từ “để đầu tư vào”. Vì khi sử dụng vốn nhà nước thì thực hiện theo quy định của Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước; nhưng vốn của nhà nước đã đầu tư vào doanh nghiệp thì phải theo luật doanh nghiệp nhằm đảm bảo các quyền lợi của cổ đông khác, không làm cản trở quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư. Khoản 2b viết lại như sau: “Việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước để đầu tư vào doanh nghiệp thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp”.

3) Sửa đổi, bổ sung khoản Điều 5

Khoản 1: có ý kiến cho rằng để khoản 1 chặt chẽ, đề nghị sửa như sau: “Khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, nhà (chủ) đầu tư phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện đầu tư kinh doanh”.

Khoản 2a: có ý kiến đề nghị cần làm rõ nghĩa và xác định rõ mức độ của "gây phương hại"  là như thế nào và cơ quan có thẩm quyền có thể ra quyết định đối với dự án đầu tư có gây phương hại đến an ninh, quốc phòng, di tích lịch sử, văn hoá, đạo đức, sức khoẻ cộng đồng và môi trường.

Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “không được,” vào trước “chấp thuận” để  quy định được rõ ràng hơn. Khoản 2a viết lại như sau: “Nhà đầu tư không được đăng ký, không được chấp thuận hoặc bị đình chỉ, ngừng, chấm dứt hoạt động đầu tư kinh doanh nếu hoạt động này gây phương hại đến an ninh, quốc phòng, di tích lịch sử, văn  hóa, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng và môi trường”.    

Có ý kiến cho rằng nội dung khoản 2a, khoản 2b Điều 5 quy định còn chung chung, mang tính khẩu hiệu. Đề nghị cần quy định cụ thể, chi tiết hơn.

4) Sửa đổi, bổ sung Điều 6

- Điểm c khoản 1: có ý kiến đề nghị xem lại danh mục “… quý hiếm khai thác từ tự nhiên”, đề nghị cần quy định cụ thể hơn..

5) Sửa đổi, bổ sung Điều 7

- Khoản 1: thay từ “việc” bằng từ “khi” trong nội dung khoản 1 để quy định được rõ ràng và thống nhất với các nội dung của dự thảo Luật. Khoản 1 viết lại như sau: “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành nghề mà khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện cần thiết để bảo vệ quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”    

- Khoản 3: có ý kiến đề nghị thay từ “giao” bằng cụm từ “quy định” trong cuối nội dung khoản 3 Điều 7 để xác định thủ tục hành chính được Quốc hội quy định trong luật. Khoản 3 viết lại như sau: “…, trừ thủ tục hành chính được quy định trong luật”.

- Điểm e khoản 4a: có ý kiến cho rằng quy định này áp dụng cho trường hợp điều kiện kinh doanh là tiền kiểm thông qua Giấy phép. Mục đích của quy định nhằm hướng đến việc đảm bảo cho các doanh nghiệp phải đáp ứng đủ điều kiện khi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, quy định này gây nhiều cản trở trong hoạt động của doanh nghiệp, tạo thêm thủ tục cho doanh nghiệp trong khi đó chỉ đáp ứng với mục tiêu là quản lý Nhà nước chứ không hướng đến mục tiêu vì lợi ích công cộng.

Bởi, bên cạnh cơ chế tiền kiểm, doanh nghiệp còn bị kiểm soát bởi cơ chế hậu kiểm, tức doanh nghiệp trong quá trình hoạt động cần luôn đảm bảo các điều kiện kinh donh của mình, trường hợp không đáp ứng các điều kiện kinh doanh, doanh nghiệp có thể bị xử phạt. Do đó, nghĩa vụ của doanh nghiệp là cần đảm bảo các điều kiện kinh doanh trong quá trình thực tế hoạt động của chính doanh nghiệp chứ không nên quy định thời hạn hiệu lực của giấy phép là một trong các yêu cầu bắt buộc.

Vì vậy, đề xuất bỏ cụm từ Thời hạn có hiệu lực của giấy phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ hoặc các giấy tờ xác nhận, chấp thuận khác.

Điểm e khoản 4a viết lại như sau: “Giấy phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ hoặc các giấy tờ xác nhận, chấp nhận khác (nếu có)”.

            - Điểm đ khoản 4 b: có ý kiến cho rằng nội dung điểm đ khoản 4b không rõ ràng, khó thực hiện, đề nghị cần xem lại để quy định cụ thể hơn.

6) Bổ sung Điều 8a

Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể  về các ngành nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài trong dự thảo Luật để thống nhất với nội dung các ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong Luật Đầu tư hiện hành.

7) Sửa đổi, bổ sung Điều 15

- Điểm c khoản 2: có ý kiến đề nghị làm rõ cơ sở nào để quy định “…mười nghìn tỷ đồng trong một năm trong thời gian chậm nhất sau ba năm kể từ năm có doanh thu hoặc sử dụng trên ba nghìn lao động”?.

- Điểm a khoản 4: có ý kiến đề nghị thay từ “trừ” thành cụm từ “nhưng áp dụng đối với các” nhằm làm rõ phạm vi điều chỉnh của Luật, không gây khó hiểu hoặc hiểu sai. Điểm a khoản 4 viết lại như sau: “Ưu đãi đầu tư đối với các đối tượng quy định tại các điểm b,c và d khoản 2 Điều này không đáp dụng đối với dự án khai thác khoáng sản; dự án sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, nhưng áp dụng đối với các dự án sản xuất ô tô, máy bay, du thuyền; dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại theo quy định của pháp luật về nhà ở”.

8) Sửa đổi, bổ sung Điều 16

 Điểm a khoản 1: có ý kiến đề nghị thay cụm từ “khoa học và công nghệ” bằng cụm từ “phát triển khoa học và ứng công nghệ” tại cuối điểm a khoản 1. Điểm a khoản 1 viết lại như sau: “Hoạt động công nghệ cao, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D); sản xuất các sản phẩm hình thành từ kết quả phát triển khoa học và ứng dụng công nghệ

Điểm p khoản 1: có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể về tiêu chí, điều kiện của "dự án khởi nghiệp sáng tạo" để tránh việc hiểu khác nhau và bị lạm dụng.

9) Sửa đổi, bổ sung Điều 18

- Điểm  a khoản 2: có ý kiến đề nghị xem lại quy định “…có tổng vốn đầu tư từ 6.000 tỷ đồng trở lên” vì số tiền quá lớn. Đề nghị cần xem xét giảm xuống để khuyến khích các dự án đổi mới, sáng tạo.

- Điểm b khoản 3: có ý kiến cho rằng thời hạn và mức áp dụng ưu đãi đầu tư đặc biệt quy định trong  dự thảo Luật chưa thống nhất. Đề nghị cần điều chỉnh cụm từ “cao hơn quá 50%” thành “quá 1,5 lần”.

 10) Sửa đổi Điều 26

- Điểm b khoản 3: có ý kiến nghị điều chỉnh cụm từ “từ 51%” và cụm từ “51% trở lên” thành cụm từ “trên 50%”; thay cụm từ “dưới 51%” thành cụm từ “50% trở xuống” để thống nhất với quy định về mức cổ phần chi phối của Luật Doanh nghiệp. Điểm b khoản 3 viết lại như sau: “Việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp dẫn đến việc nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế quy định tại các điểm a,b và c khoản 1 Điều 23 Luật này nắm giữ từ trên 50% vốn điều lệ trở lên của tổ chức kinh tế trong các trường hợp: tăng tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài từ 50% trở xuống lên trên 50% trở lên và tăng tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài khi nhà đầu tư nước ngoài đã sở hữu từ 51% vốn điều lệ trở lên trong tổ chức kinh tế;” 

- Điểm b khoản 4: có ý kiến cho rằng đối với việc góp vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài cần phải có quy định xem xét kỹ khi đầu tư vào nơi nhạy cảm về an ninh quốc phòng.

11) Bổ sung Điều 26a

Khoản 2: có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định “có từ hai nhà đầu tư có đủ năng lực trở lên quan tâm” nhằm sàng lọc các đối tượng tham gia, tránh làm chậm tiến độ, mất cơ hội của nhà đầu tư khác, ảnh hưởng môi trường đầu tư.

12) Sửa đổi Điều 31

- Điểm c khoản 1: có ý kiến cho rằng cần xem lại quy định tại điểm c khoản 1, đề nghị các dự án đầu tư mang tính chất xây dựng nên để Luật Xây dựng quy định thì hợp lý hơn.  

- Điểm e khoản 1: có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể về “…tại khu vực đô thị…” là khu vực đô thị hiện hữu hay đang quy hoạch đô thị trong tương lai?

Có ý kiến cho rằng đối với dự án ven biển, biên giới, đất rừng, khu vực quan trọng về an ninh, có giá trị bảo vệ môi trường, đề nghị phải có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Vấn đề bảo vệ môi trường, cảnh quan cần phải được quy định hết sức chặt chẽ.   

- Khoản 3: có ý kiến cho rằng đối với việc “trồng rừng” có rất nhiều công ty thuê đất để trồng rừng dọc biên giới, tuy nhiên không chỉ trồng rừng mà còn có thể khai thác mỏ, kinh doanh phát triển khu đô thị, khu công nghiệp, khu đặc khu kinh tế,… Ý kiến này đề nghị cần bổ sung chế tài về quy định này, khống chế việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp (như mua lại cổ phần), để có thể kiểm soát được.

13) Sửa đổi Điều 35

Điểm g khoản 6:  có ý kiến cho rằng không chỉ là nhà ở và còn nhiều chức năng khác như công nghiệp, sản xuất, kinh doanh,… đề nghị quy định theo hướng phù hợp với Quy hoạch tỉnh, quy hoạch huyện, quy hoạch đô thị trong huyện,… nếu chỉ nói đến đô thị chung chung dễ áp dụng tùy tiện, phá vỡ quy hoạch, cảnh quan môi trường. Kiến nghị không chỉ quy định riêng về nhà ở mà quy định chung các hoạt động đầu tư và phát triển phù hợp quy hoạch tỉnh, quy hoạch huyện và quy hoạch đô thị.

14) Bổ sung Điều 52a

Một số ý kiến cho rằng cần cân nhắc về quy định đầu tư kinh doanh bất động sản ra nước ngoài. Các ý kiến này cho rằng đây là vấn đề cần được xem xét thận trọng. Về ưu điểm việc đầu tư bất động sản là nhu cầu của thị trường, khi ghi nhận vào lĩnh vực ngành nghề kinh doanh có điều kiện sẽ tạo một cơ chế để Nhà nước thực hiện các hoạt động kiểm tra, kiểm soát. Song cần xem xét đến những yếu tố khác như: những mặt lợi của việc đầu tư này thường thuộc về cá nhân nhà đầu tư, còn lợi ích cho quốc gia chưa thật sự rõ rệt; một số trường hợp có thể bị lợi dụng để thể trở thành công cụ rửa tiền, tẩu tán tài sản tham nhũng, phạm pháp.

Thực tế hiện chưa có đầy đủ điều kiện để người dân hoặc doanh nghiệp tự do kinh doanh lĩnh vực này ra nước ngoài, bên cạnh đó, hệ thống pháp luật cũng có những kẻ hở (kiểm soát thuế đối với doanh nghiệp). Vì vậy, cần xây dựng cơ chế để kiểm soát chặt chẽ, đồng thời bước đầu áp dụng chỉ nên giới hạn ở một số lĩnh vực như bất động sản công nghiệp…

Điều 2: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp

1) Sửa đổi khoản 8 Điều 4

Theo định nghĩa tại khoản 8 thì Doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.”

Theo Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam đã ký, định nghĩa doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp nhà nước trực tiếp sở hữu trên 50% vốn hay kiểm soát trên 50% quyền biểu quyết. Khi đã cam kết, cần sửa khái niệm doanh nghiệp nhà nước trong Luật Doanh nghiệp cho thống nhất. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ do định nghĩa mà cần xem xét công tác quản trị doanh nghiệp có đảm bảo phù hợp với mục tiêu yêu cầu và có sự nhất quán theo khung hành lang pháp lý giữa các loại hình doanh nghiệp.

Vì vậy, vấn đề đặt ra là nếu Nhà nước sỡ hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết đã đủ đảm bảo được tính chi phối trong công tác quản trị của Nhà nước hay không? Xem xét các quy định liên quan của Luật Doanh nghiệp hiện hành về Công ty cổ phần thì quyết định của Nhà nước trong một số trường hợp vẫn sẽ bị phủ quyết cho dù Nhà nước có sở hữu trên 50% vốn điều lệ, và tỷ lệ để đảm bảo không bị phủ quyết cần tối thiểu đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông. Vì vậy, kiến nghị xem xét và quy định khái niệm doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp nhằm bảo đảm được tính nhất quán của khung hành lang pháp lý giữa các loại hình doanh nghiệp cũng như đảm bảo được tính chi phối thực chất của Nhà nước trong quyết định về các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp.

Ngoài ra, nếu điều chỉnh khái niệm doanh nghiệp nhà nước tại dự thảo Luật thì cũng cần xem xét, làm rõ với khái niệm doanh nghiệp nhà nước trong tương quan với Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014. Cụ thể đối tượng của Luật này gồm doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ bao gồm công ty TNHH Một thành viên Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ- công ty con.

2) Sửa đổi khoản 2, Điều 13

Một số ý kiến đề nghị sửa nội dung khoản 2 Điều 13 như sau: “Trường hợp công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì Điều lệ công ty và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp phải ghi rõ số lượng, chức danh quản lý, quyền và nghĩa vụ của từng người (tương ứng với quyền của người này là nghĩa vụ của những người còn lại và là nghĩa vụ của công ty). Trường hợp công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật mà Điều lệ công ty không quy định rõ quyền, nghĩa vụ của từng người thì cơ quan đăng ký kinh doanh được quyền từ chối cấp Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

Các ý kiến này cho rằng pháp luật cho doanh nghiệp một quyền riêng (khác với doanh nghiệp khác) thì phải có nghĩa vụ tương ứng với quyền riêng đó. Quyền, nghĩa vụ riêng đó phải được công khai, được thể hiện rõ trên giấy tờ pháp lý của doanh nghiệp để bảo vệ quyền lợi của đối tác và của doanh nghiệp khác (Điều lệ công ty là tài liệu nội bộ, doanh nghiệp khác không tiếp cận được).

3) Sửa đổi điểm c, khoản 1, Điều 18

Theo điểm c, khoản 1 quy định  “Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc người quản lý tại doanh nghiệp nhà nước”;…”

Việc bổ sung đối tượng “người quản lý tại doanh nghiệp nhà nước”có được hiểu là đối tượng này có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam?

Hơn nữa, đối tượng này có khác đối tượng quy định tại Điểm d, khoản 1 của Điều 18 hay không? Đề nghị cần xem lại và quy định cụ thể hơn nội dung này trong dự thảo Luật.

4) Sửa đổi Điều 44

Khoản 1: một số ý kiến cho rằng cần xem lại nội dung “Doanh nghiệp có quyền quyết định có hoặc không có con dấu; quyết định số lượng, hình thức và nội dung con dấu của doanh nghiệp, dấu của chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp. Việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty hoặc quy chế do công ty, đơn vị khác của doanh nghiệp ban hành”, quy định như vậy sẽ rất phức tạp, có doanh nghiệp có con dấu còn doanh nghiệp thì không, con dấu rất quan trọng trong quản lý đối với doanh nghiệp. Nhiều luật liên quan đã quy định nếu là doanh nghiệp thì cần ký tên đóng dấu khi ra tòa, khi chứng thực,... Vậy khi quy định này có hiệu lực sẽ phải sửa rất nhiều luật. Đề nghị giữ như hiện nay, quy định Doanh nghiệp phải có con dấu.

5) Sửa đổi khoản 2, Điều 45

Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “hoạt động” sau cụm từ “thực hiện”. Khoản 2 viết lại như sau: “Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ các lợi ích đó. Văn phòng đại diện không thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp”.

6) Sửa đổi khoản 5, Điều 48

Để nghị giữ nguyên quy định tại khoản 5, Điều 48 Luật Doanh nghiệp hiện hành. Khoản 5, Điều 48 nhằm quy định việc cấp giấy chứng nhận phần vốn góp cho thành viên của công ty. Thời điểm “người góp vốn trở thành thành viên công ty” đã được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 48 (khi thành lập doanh nghiệp), khoản 2, Điều 53 (khi nhận chuyển nhượng phần vốn góp) và các trường hợp khác theo quy định tại Điều 54. Do đó không cần sửa đổi khoản 5, Điều 48 để xác định thời điểm “người góp vốn trở thành thành viên công ty”.

7) Bổ sung khoản 7, Điều 54

Một số ý kiến cho rằng quy định như khoản 7 Điều 54 chưa hợp lý vì không thể ủy quyền khi đã bị kết án tù hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề. Đề nghị cần quy định theo hướng không được ủy quyền mà phải thay đổi người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ.

8) Sửa đổi khoản 4, Điều 57

Việc sửa đổi khoản 4, Điều 57, quy định trường hợp Chủ tịch hội đồng thành viên “bị chết, bị mất tích, bị tạm giam hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì một trong số thành viên Hội đồng thành viên triệu tập hp các thành viên còn lại bầu một người trong số các thành viên tạm thời thực hiện quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên theo nguyên tắc đa số quá bán”  là không phù hợp. Việc bầu “tạm thời” chỉ áp dụng trong trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên “tạm thời không thực hiện được quyền, nghĩa vụ của mình”. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên “bị chết, bị mất tích, bị tạm giam hoặc mất năng lực hành vi dân sự” thì Hội đồng thành viên cần bầu chủ tịch mới thay thế.

9) Sửa đổi khoản 6, Điều 79

Có ý kiến cho rằng việc thông qua nghị quyết của Hội đồng thành viên cần quy định thống nhất căn cứ trên số phiếu biểu quyết của thành viên dự họp mà không dựa vào số lượng thành viên dự họp.

Do đó, kiến nghị sửa khoản 6 như sau: “ Nghị quyết của Hội đồng thành viên được thông qua khi có đa số phiếu biểu quyết của các thành viên dự họp tán thành. Việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại công ty, chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty phải được ít nhất ba phần tư số phiếu biểu quyết của thành viên dự họp tán thành.

10) Bổ sung Điều 87a

Điểm b khoản 1: có ý kiến cho rằng quy định Doanh nghiệp nhà nước nên là  100% vốn điều lệ là phù hợp; cần xem lại “Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 50%...”. Đề nghị cần quy định việc quản lý như thế nào cho phù hợp hơn là sửa đổi như dự thảo Luật.

11) Sửa đổi khoản 2, khoản 4, Điều 114 Luật Doanh nghiệp

Có ý kiến cho rằng việc quy định quyền cho cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 01% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có các quyền quy định tại khoản 2, Điều 114 dự thảo Luật đã tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn cho các cổ đông nhỏ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, có thể dẫn đến những khó khăn cho công ty trong trường hợp có những cổ đông lạm dụng quyền để thường xuyên can thiệp hoạt động quản trị điều hành chứ không thực sự vì lợi ích của Công ty.

Ngoài ra, việc bỏ quy định về thời hạn sở hữu cổ phần để thực hiện quyền của cổ đông hoặc nhóm cổ đông cũng cần xem xét, đánh giá làm rõ, vì quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu cổ phần “trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng” mới có một số quyền như đề cử người vào Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát… nhằm hài hòa lợi ích cả 2 phía là quyền cổ đông và sự ổn định trong hoạt động quản trị, điều hành của công ty.

Đồng thời, kiến nghị xem xét sửa tỷ lệ sở hữu tại điểm b, khoản 36, Điều 2 dự thảo Luật từ 10% xuống 5% để tăng cường sự bảo đảm quyền của cổ đông, tương thích với quy định cổ đông lớn sở hữu từ 5% trở lên theo quy định tại khoản 9, Điều 6 về “Giải thích từ ngữ”, Luật Chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010); khoản 26, Điều 4 về “Giải thích từ ngữ”, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

12) Sửa đổi, bổ sung khoản 4, Điều 127

Một số ý kiến đề nghị không nên quy định khoản 4. Điều 127 trong dự thảo Luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, nên đưa vào Luật chứng khoán đang được sửa đổi (quy định cả chứng khoán vốn lẫn chứng khoán nợ).

13) Sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 161

Có ý kiến cho rằng cần xem lại tỷ lệ “Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông…” vì tỷ lệ này quá nhỏ và như vậy sẽ có rất nhiều người  khởi kiện khi mà sở hữu chỉ có 1% cổ phần phổ thông.

Có ý kiến đề nghị cần bổ sung quy định được quyền khởi kiện cả Nghị quyết của Hội đồng quản trị.

14) Bổ sung Điều 187a Luật Doanh nghiệp

Khoản 1: nhiều ý kiến đề nghị cần xem lại nội dung khoản 1, Điều 187a vì quy định chủ doanh nghiệp tư nhân bị Tòa án tước quyền hành nghề theo quy định pháp luật có quyền ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình là không phù hợp. Trong trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân đã bị Tòa án tước quyền hành nghề thì không còn quyền để ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân.

15) Bổ sung Điều 199a

- Điểm b khoản 1: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “và các nghĩa vụ khác liên quan” vào cuối nội dung điểm b, khoản 1, Điều 199a của dự thảo Luật. Vì trong hoạt động kinh doanh của hộ còn nhiều nghĩa vụ khác (nợ, bảo hành,…), không chỉ riêng nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đã ký. Điểm b, khoản 1 viết lại như sau: “Chủ hộ kinh doanh có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty được chuyển đổi sẽ tiếp nhận và tiếp tục thực hiện các hợp đồng đó và các nghĩa vụ khác có liên quan”.

- Có ý kiến cho rằng không cần thiết bổ sung Điều 199a về chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp vào dự thảo Luật.

16) Một số chế định cần xem xét, bổ sung vào dự thảo Luật

16.1- Về người có liên quan:

Được quy định tại khoản 17, Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014, đó là tổ chức, cá nhân có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp trong đó có trường hợp tại điểm đ là: Vợ, chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người quản lí công ty hoặc của thành viên, cổ đông sở hữu phần vốn góp hay cổ phần chi phối. Quy định theo hướng liệt kê như trên sẽ dẫn đến việc bỏ sót các trường hợp có mối quan hệ liên quan khác không bị kiểm soát. Ví dụ: giao dịch giữa anh vợ, em vợ của người quản lí công ty với công ty. Giao dịch giữa anh rể/em rể với công ty có mối quan hệ gần gũi tương tự như giao dịch giữa anh vợ/em vợ với công ty nhưng giao dịch sau lại không bị kiểm soát. Vì vậy, cần bổ sung về người có liên quan của doanh nghiệp trong việc kiểm soát các giao dịch có nguy cơ tư lợi trong công ty.

16.2- Về thời hạn góp vốn trong trường hợp thành viên góp vốn bằng tài sản (sửa đổi khoản 2, Điều 48):

Khoản 2 quy định “Thành viên phải góp vốn phần vốn góp cho công ty đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Trường hợp, thành viên góp vốn bằng tài sản thì thời gian vận chuyển nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản đó không tính vào thời hạn góp vốn này. Thành viên công ty chỉ được góp vốn phần vốn góp cho công ty bằng các tài sản khác với loại tài sản đã cam kết nếu được sự tán thành của đa số thành viên còn lại. Trong thời hạn này, thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp như đã cam kết góp.”

Cần quy định rõ giới hạn thời gian đối với nội dung bổ sung như trên (về thời gian vận chuyển nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản đó không tính vào thời hạn góp vốn khi thành lập doanh nghiệp), tránh trường hợp thành viên góp vốn bằng tài sản lấy lý do tài sản đang vận chuyển để kéo dài thời hạn hoàn thành nghĩa vụ góp vốn, không đảm bảo sự công bằng về việc thực hiện nghĩa vụ giữa các thành viên góp vốn.

16.3- Về trách nhiệm tài sản của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh:

Trách nhiệm tài sản của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 172: Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty”. Trong khi đó, tại điểm a, khoản 2, Điều 182 lại có quy định: Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp”.

Vậy, thành viên góp vốn sẽ phải chịu trách nhiệm tài sản theo quy định tại Điều 172 hay Điều 182 Luật Doanh nghiệp. Do đó, đề xuất quy định thống nhất về trách nhiệm tài sản của thành viên góp vốn công ty hợp danh.

16.4- Về việc xác định lại tỷ lệ phần vốn góp của thành viên:

Khoản 2, khoản 3, Điều 37 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về trách nhiệm khi định giá sai tài sản góp vốn cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn. Theo đó:

Khi thành lập doanh nghiệp nếu “tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế” hoặc  trong quá trình hoạt động nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì người góp vốn, chủ sở hữu, thành viên Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời, liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do việc cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế”.

Quy định trên chưa đề cập đến tỉ lệ phần vốn góp của từng thành viên sau khi “bù đắp” phần chênh lệch. Tỉ lệ phần vốn góp của từng thành viên sẽ ảnh hưởng đến việc chia lợi nhuận, tỉ lệ phiếu biểu quyết và trách nhiệm tài sản về các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của công ty.

Do đó, đề xuất bổ sung quy định các thành viên phải xác định lại tỉ lệ phần vốn góp của từng thành viên trong tổng số vốn điều lệ sau khi đã xử lí phần chênh lệch giữa giá trị tài sản góp vốn được định giá và giá trị thực tế của tài sản đó.

16.5- Về thủ tục thông qua nghị quyết của Hội đồng thành viên theo hình thức lấy ý kiến bằng văn bản:

 Điều 62 Luật Doanh nghiệp quy định về thủ tục thông qua nghị quyết của Hội đồng thành viên theo hình thức lấy ý kiến bằng văn bản chưa đề cập đến trường hợp thành viên không gửi ý kiến về công ty. Vậy hành động không gửi phiếu lấy ý kiến về công ty được xếp vào phiếu tán thành hay không tán tán thành với các nội dung được lấy ý kiến?

Trong khi đó, đối với công ty cổ phần, khoản 4 Điều 145 Luật Doanh nghiệp: quy định: “Các phiếu lấy ý kiến gửi về công ty sau thời hạn đã xác định tại nội dung phiếu lấy ý kiến hoặc đã bị mở trong trường hợp gửi thư và bị tiết lộ trong trường hợp gửi fax, thư điện tử là không hợp lệ. Phiếu lấy ý kiến không được gửi về được coi là phiếu không tham gia biểu quyết”. Như vậy, tại Điều 145 đã quy định nếu phiếu lấy ý kiến không được gửi về được coi là phiếu không tham gia biểu quyết.

Vì vậy đề xuất bổ sung quy định trường hợp thành viên hội đồng thành viên không gửi phiếu biểu quyết về được coi là không tham gia biểu quyết vào Điều 62 để thống nhất với nội dung tại Điều 145 Luật Doanh nghiệp.

16.6- Về việc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của thành viên Hội đồng quản trị khi thuộc trường hợp  bị miễn nhiệm quy định tại khoản 1 Điều 156 Luật Doanh nghiệp 

Hiện nay, việc hiểu và áp dụng quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên Hội đồng quản trị chưa được thống nhất. Có ý kiến cho rằng, quyền và nghĩa vụ của thành viên Hội đồng quản trị chấm dứt ngay khi thuộc trường hợp bị miễn nhiệm, ý kiến khác lại cho rằng quyền và nghĩa vụ của thành viên Hội đồng quản trị thuộc trường hợp bị miễn nhiệm chỉ chấm dứt sau khi được Đại hội đồng cổ đông biểu quyết thông qua. Do đó, dự thảo luật cần làm rõ quy định này.

16.7- Về việc ủy quyền của cổ đông cho Hội đồng quản trị:

Hiện nay rất nhiều doanh nghiệp khi thực hiện họp Đại hội đồng cổ đông thường niên cũng như xin ý kiến Đại hội đồng cổ đông thường trình nội dung đề nghị Đại hội đồng cổ đông ủy quyền cho Hội đồng quản trị thực hiện một số công việc thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên, cả Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị đều không có tư cách ủy quyền hoặc nhận ủy quyền theo quy định tại khoản 1, Điều 138, Bộ luật Dân sự 2015 do không đáp ứng tiêu chí người ủy quyền và người nhận ủy quyền phải là cá nhân/pháp nhân. Việc vi phạm quy định về ủy quyền và nhận ủy quyền tiềm ẩn khả năng dẫn đến việc ký kết, quyết định, thông qua các giao dịch, hợp đồng vượt quá thẩm quyền đại diện do việc ủy quyền vi phạm quy định pháp luật. Do đó, dự thảo luật cần xem xét điều chưa quy định.

16.8- Làm rõ quy định về thẩm quyền quyết định đâu tư theo Luật Doanh nghiệp và Luật Xây dựng:

 Luật Doanh nghiệp quy định, Hội đồng quản trị quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo quy định pháp luật (điểm e khoản 2 Điều 149 Luật Doanh nghiệp). Tuy nhiên, Luật Xây dựng lại quy định: “Người quyết định đầu tư là cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có thẩm quyền phê duyệt dự án và quyết định đầu tư xây dựng (khoản 27 Điều 3 Luật Xây dựng). Việc quy định không thống nhất giữa hai Luật dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp trong việc xác định thẩm quyền quyết định đầu tư./.

CÁC TIN BÀI KHÁC:
thông tin cần biết
Chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2021 của Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh



Thông cáo Báo chí về kết quả kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV



Báo cáo Tổng kết nhiệm kỳ Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh khóa XIV (2016 - 2021)



Báo cáo hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh năm 2020


tin nổi bật
Liên kết website
Số lượt truy cập
07970505




                                             Trụ sở Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh

                                             2Bis Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP.HCM
                                             ĐT: 028.38295353 - Fax: 028.38291574
                                             Email:
vpddbqh@tphcm.gov.vn - hcm@qh.gov.vn