Để chuẩn bị nội dung cho kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, Đoàn đại biểu Quốc Thành phố Hồ Chí Minh đã gửi văn bản lấy ý kiến của các sở, ngành, đơn vị và các chuyên gia góp ý cho dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi), sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV.
Dưới đây là tổng hợp các ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật:
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1- Về sự cần thiết ban hành dự thảo Luật
Các ý kiến cho rằng việc sửa đổi Luật Cư trú hiện hành là cần thiết nhằm đáp ứng được yêu cầu thực tế, bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới, yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân và chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong công tác quản lý cư trú; đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
2- Hầu hết các ý kiến cho rằng quy định bãi bỏ hình thức quản lý dân cư bằng Sổ hộ khẩu, Sổ Tạm trú, thay thế bằng hình thức quản lý theo số định danh cá nhân, hoàn thiện trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, về cư trú là phù hợp với tình hình hiện nay về quản lý dân cư, quản lý xã hội trên nền tảng kỹ thuật số đáp ứng yêu cầu ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong quản lý cư trú.
3- Về điều kiện đăng ký thường trú vào thành phố trực thuộc Trung ương
Các ý kiến thống nhất với dự thảo Luật về việc bỏ quy định riêng về điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương. Đối với các thành phố trực thuộc Trung ương là đô thị đặc biệt (có mật độ dân số cao như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh) cần thiết có điều kiện mang tính kỹ thuật, khoa học để đăng ký thường trú, giúp điều tiết được mức tăng dân số, phục vụ tốt cho công tác quản lý cứ trú nói riêng và quản lý xã hội nói chung; đảm bảo dân số tăng phù hợp với khả năng đáp ứng được của hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật của đô thị (tránh sự quá tải của chính quyền) và dân số tăng phục vụ lại quá trình phát triển đô thị của thành phố.
4- Về bổ sung một số trường hợp xóa đăng ký thường trú
Các ý kiến nhất trí với dự thảo Luật về quy định bổ sung 04 trường hợp xóa đăng ký thường trú. Tuy nhiên, đề nghị điều chỉnh bổ sung trường hợp xóa đăng ký thường trú đối với “Công dân vắng mặt tại nơi thường trú từ trên 12 tháng liên tục mà không đăng ký tạm trú ở nơi nào hoặc không khai báo tạm vắng với Công an xã, phường, thị trấn nơi thường trú” thành “Công dân vắng mặt tại nơi thường trú từ trên 12 tháng liên tục mà không có lý do chính đáng hoặc không khai báo tạm vắng với Công an xã, phường, thị trấn nơi thường trú”.
5- Về bố cục dự thảo Luật
5.1- Một số ý kiến đề nghị bổ sung một Điều quy định về “Đối tượng áp dụng” vào nội dung dự thảo Luật để tạo sự thống nhất trong các văn bản pháp luật.
5.2- Có ý kiến đề nghị chuyển Điều 36, Điều 37 và Chương VII (Cơ sở dữ liệu về cư trú) vì nội dung Điều 36, Điều 37 không phù hợp với quy định tại Chương VI (Trách nhiệm quản lý cư trú).
5.3- Có ý kiến đề nghị sửa tiêu đề Điều 9, Điều 10 lại như sau:
Điều 9: “Các trường hợp bị hạn chế quyền tự do cư trú” thành Điều 10.
Điều 10: “Trách nhiệm của công dân về cư trú” thành Điều 9.
5.4- Có ý kiến đề nghị xem lại quy định tại các Điều 12, 13, 14, 15, 17 của dự thảo Luật vì không phù hợp quy định tại khoản 2, Điều 8 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật “Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định cụ thể nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung, không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác” (nội dung các Điều 12, 13, 14, 15, 17 của dự thảo Luật đã được quy định tại Điều 40, 41, 42, 43, 45 Bộ luật Dân sự năm 2015). Vì vậy, ý kiến này đề nghị xem xét không quy định Điều 12, 13, 14, 15, 17 trong dự thảo Luật (có thể dẫn chiếu đến Điều 40, 41, 42, 43, 45 Bộ luật Dân sự năm 2015) để phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
5.5- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về trình tự, thủ tục xác nhận mã số định danh cho công dân, đảm bảo thực hiện các thủ tục hành chính và giao dịch.
II- GÓP Ý CỤ THỂ CHO DỰ THẢO LUẬT
1- Về giải thích từ ngữ (Điều 2)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 2 giải thích thế nào là: tạm vắng; nơi thường xuyên đậu đỗ; hộ gia đình; giấy tờ về cư trú; giấy xác nhận về cư trú;
- Khoản 3 quy định “Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú” như vậy là chưa đầy đủ, chưa bao hàm hết diện người “cư trú” ảnh hưởng đến phạm vi điều chỉnh về quyền, trách nhiệm của của tổ chức, cá nhân nêu tại Điều 1 của dự thảo Luật. Đề nghị sửa lại khoản 3 như sau “Cư trú là việc công dân ở lại tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú, tạm trú, lưu trú hoặc người không đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú”.
- Khoản 8: có ý kiến cho rằng nếu quy định như nội dung khoản 8 Điều 2 chưa sát với thực tế diện người lưu trú. Cụ thể như người đi chữa bệnh, đi du lịch, thăm thân nhân, đi công tác, tập huấn ngắn ngày, … Nhưng ở lại trên 30 ngày tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn (nhà người thân, khách sạn, nhà nghỉ, nhà khách, bệnh viện,…), họ không thuộc diện thường trú và cũng không cần thiết lập hồ sơ đăng ký tạm trú mà chỉ thực hiện thông báo lưu trú là đầy đủ. Đề nghị sửa khoản 8 như sau: “Lưu trú là việc công dân ở lại một nơi thuộc xã, phường, thị trấn trong một khoảng thời gian nhất định để chữa bệnh, đi du lịch, thăm thân, giải quyết công việc không vì mục đích đến để sinh sống, không phải học tập loại hình đào tạo chính quy; những công dân này cư trú không thuộc diện đăng ký thường trú hoặc tạm trú”.
- Khoản 9: có ý kiến đề nghị cần giải thích khái niệm về “Người không có nơi cư trú ổn định” theo hướng giải thích của Điều 3 Thông tư số 48/2014/TT-BCA của Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP.
- Khoản 12: có ý kiến đề nghị bổ sung như sau: “Nơi thường xuyên sinh sống là nơi thực tế công dân đang sinh sống có thời gian liên tục từ 12 tháng trở lên trên địa bàn xã, phường, thị trấn có khai báo với Công an xã, phường, thị trấn” để làm cơ sở quản lý đối với người không xác định được nơi cư trú, không đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú theo quy định tại khoản 2 Điều 12 và Điều 20 dự thảo Luật.
- Có ý kiến đề nghị cần xem lại nội dung giải thích các khái niệm “nơi thường trú”(khoản 10); “nơi tạm trú” (khoản 11); “đăng ký thường trú” (khoản 12) để tạo sự thống nhất trong quy định của dự thảo Luật. Đồng thời, đề nghị cần bổ sung quy định “chưa bị xóa hoặc hủy đăng ký thường trú/tạm trú” vào nội dung khoản 10, khoản 11 Điều 3 dự thảo Luật.
2- Về nguyên tắc cư trú và quản lý cư trú (Điều 4)
- Khoản 3: có ý kiến cho rằng Chương IV và Chương V dự thảo Luật có quy định cụ thể về thủ tục đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú và thông báo lưu trú cùng các thủ tục khác liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về cư trú. Để đảm bảo sự thống nhất và tạo điều kiện thuận lợi khi áp dụng luật, đề nghị bổ sung khoản 3 như sau: “Ngoài các nội dung được quy định cụ thể tại Luật này, không được quy định thêm trình tự, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động quản lý cư trú”
- Khoản 4:
+ Có ý kiến đề nghị sửa nội dung khoản 4 như sau “Mọi thay đổi về cư trú phải được đăng ký, khai báo và thông báo; tại một thời điểm mỗi công dân chỉ được đăng ký thường trú, tạm trú tại một nơi” vì công tác quản lý nhà nước về cư trú bao gồm quản lý về thường trú, tạm trú, khai báo tạm vắng, lưu trú.
+ Có ý kiến đề nghị cần xem lại quy định “tại một thời điểm, mỗi công dân chỉ được đăng ký thường trú, tạm trú tại một nơi” sẽ được hiểu là cùng một thời điểm mỗi công dân đồng thời đăng ký thường trú và đăng ký tạm trú chỉ tại một nơi. Như vậy không đúng với yêu cầu đặt ra để công dân thực hiện trách nhiệm đăng ký tạm trú, cũng như cơ quan chức năng thực hiện quản lý cư trú. Đề nghị sửa lại khoản 4 như sau: “Mọi thay đổi về cư trú phải được đăng ký; tại một thời điểm, mỗi công dân chỉ được đăng ký thường trú một nơi và đăng ký tạm trú tại một nơi, nếu có.”.
3- Về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 7)
Khoản 2: có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Sử dụng thông tin về nơi cư trú để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân dưới mọi hình thức”.
Khoản 9: có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Thuê, cho thuê, làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ về cư trú; sử dụng giấy tờ giả về cư trú; cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về cư trú; khai man, giả mạo hồ sơ, giấy tờ, giả mạo điều kiện để được đăng ký cư trú”.
Khoản 11: có ý kiến đề nghị xem lại quy định tại khoản 11 vì hành vi này đã được bao hàm trong hành vi quy định tại khoản 7 Điều 7.
Khoản 12: có ý kiến đề nghị xem lại cụm từ “để vụ lợi” vì thực tế việc cho người khác vào đăng ký cư trú là giao dịch dân sự của các bên và đa phần xuất phát từ lợi ích, có thể vì lợi ích tinh thần (cho mượn, cho ở nhờ); lợi ích vật chất (cho thuê). Trong khi đó, việc xác định yếu tố “để vụ lợi” đề chứng minh hành vi vi phạm rất khó thực hiện trong hoạt động quản lý nhà nước.
4- Về quyền của công dân về cư trú (Điều 8)
Khoản 2: có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể về cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền trong nội dung khoản 2, đồng thời chưa có sự kết nối với các điều khoản khác trong dự thảo Luật và các luật khác.
Khoản 3: có ý kiến cho rằng cần xem lại cụm từ “theo yêu cầu chính đáng của mình” trong nội dung khoản 3 vì rất khó xác định và dễ gây phát sinh tùy tiện trong quá trình thực hiện. Đề nghị thay bằng cụm từ “theo quy định” sẽ phù hợp hơn. Đồng thời, đề nghị bổ sung quy định cụ thể các trường hợp người dân được đề nghị tra cứu thông tin về đăng ký cư trú của bản thân và cấp giấy tờ xác nhận về cư trú, trình tự, thủ tục (cơ quan tiếp nhận, thời gian giải quyết).
Khoản 4: có ý kiến đề nghị thay cụm từ “theo yêu cầu” bằng cụm từ “theo quy định” trong nội dung khoản 4 Điều 8.
Khoản 6: có ý kiến đề nghị thay thế cụm từ “quyền cư trú” bằng cụm từ “quyền tự do cư trú”. Khoản 6 viết lại như sau: “Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ quyền tự do cư trú”.
5- Về các trường hợp bị hạn chế quyền tự do cư trú (Điều 9)
Có ý kiến cho rằng ngoài việc quy định các trường hợp bị hạn chế quyền tự do cư trú, cần nghiên cứu bổ sung quy định về các trường hợp người bị hạn chế quyền tự do cư trú được thay đổi nơi cư trú khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Khoản 1: có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định” để phù hợp với khoản 3 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Khoản 2: có ý kiến đề nghị cần điều chỉnh lại quy định “bị can, bị cáo đang tại ngoại” để phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành vì hiện nay pháp luật chưa có quy định về “bị can, bị cáo đang tại ngoại” mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về “biện pháp ngăn chặn thay thế tạm thời” bao gồm “bảo lãnh” (Điều 121) và “đặt tiền để bảo đảm” (Điều 122).
6- Về trách nhiệm của công dân về cư trú (Điều 10)
Khoản 2: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “kịp thời” vào nội dung khoản 3 nhằm đảm bảo tính pháp lý chặt chẽ hơn. Khoản 2 viết lại như sau: “Cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu về cư trú của mình cho cơ quan, người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thông tin, tài liệu đã cung cấp”.
7- Về chủ hộ (Điều 11)
Có ý kiến đề nghị sửa lại tiêu đề Điều 11 như sau: “Trách nhiệm của chủ hộ”.
Có ý kiến cho rằng Điều 11 quy định các trường hợp cần xác lập lại chủ hộ, khi đó các thành viên hộ gia đình còn lại ở nơi cư trú hiện tại cần thống nhất đề cử chủ hộ mới. Trong một số trường hợp, vai trò của chủ hộ liên quan đến trách nhiệm với nhà nước, cùng các các hệ quả pháp lý. Ví dụ như khoản 5 Điều 7 Luật Đất đai năm 2013 quy định chủ hộ gia đình chịu trách nhiệm với nhà nước về việc sử dụng đất của hộ gia đình. Trong nhiều trường hợp, vai trò chủ hộ chỉ mang tính thủ tục trong quản lý hành chính. Đề nghị cần có sự bổ sung điều chỉnh vấn đề này cho phù hợp trong dự thảo Luật.
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định vào Điều 11 về tách hộ khi các thành viên trong hộ có yêu cầu chính đáng như đã lập gia đình, có thêm thế hệ tiếp nối.
Khoản 2: có ý kiến cho rằng thực tế có nhiều trường hợp sau khi chủ hộ chết hoặc chuyển đi nơi khác thì xảy ra việc giành quyền làm chủ hộ giữa các thành viên còn lại trong hộ gia đình mà cơ quan có thẩm quyền không giải quyết được dẫn đến tình trạng hộ gia đình không có chủ hộ. Đề nghị xem xét bổ sung quy định về việc xác định chủ hộ mới trong trường hợp này.
8- Về nơi cư trú của công dân (Điều 12)
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 vì quy định này cụ thể hơn về nơi cư trú từ đó giúp cho địa phương có cơ sở để xác định người cư trú ổn định trong một số trường hợp cụ thể như đưa đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vì nơi cư trú công dân phải là chỗ ở hợp pháp.
Có ý kiến đề nghị thay “nơi cư trú của công dân” thành cụm từ “nơi cư trú của cá nhân” trong tiêu đề và nội dung của Điều 12. Vì thực tế có nhiều trường hợp do lịch sử để lại là người đó không có quốc tịch (không phải là công dân Việt Nam) nhưng đã cư trú ổn định tại Việt Nam, được đăng ký hộ khẩu thường trú.
Khoản 2: có ý kiến đề nghị cần làm rõ trường hợp xác định nơi cư trú theo quy định tại khoản 2 Điều 12 có đồng nhất với trường hợp quy định tại Điều 20 dự thảo Luật hay không? Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể các thủ tục, điều kiện xác định nơi cư trú theo “địa bàn xã, phường, thị trấn, người đó đang sinh sống” có phải là “nơi thường xuyên sinh sống”; thủ tục khai báo, đăng ký nơi cư trú xác định theo khoản 2 Điều 12 được thực hiện theo các điều khoản cụ thể nào?
9- Về nơi cư trú của người chưa thành niên (Điều 13)
Khoản 2: có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “bằng văn bản” vào nội dung khoản 2 để quy định có tính pháp lý chặt chẽ hơn. Khoản 2 viết lại như sau: “Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý bằng văn bản hoặc theo quy định của pháp luật”.
10- Về nơi cư trú của người làm nghề lưu động (Điều 17)
Điều 17 quy định về nơi cư trú của người làm nghề lưu động, theo đó tàu thuyền, phương tiện lưu động được sử dụng làm nơi cư trú phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Tàu, thuyền, phương tiện lưu động thường có quy định về niên hạn sử dụng, từ đó đặt ra vấn đề về điều kiện đối với những phương tiện này khi đã hết niên hạn sử dụng nhưng vẫn được sử dụng làm nơi cư trú. Đề nghị cần có kết nối giữa Điều 17 và Điều 23 dự thảo Luật để tạo sự thống nhất trong quy định của pháp luật.
11- Về nơi cư trú của người hoạt động tại cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 18)
Có ý kiến cho rằng nơi cư trú của người ở tại cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo là địa chỉ của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo có nhà ở dành cho người tu hành. Đề nghị cần bổ sung cụm từ “nơi ở” vào sau cụm từ “nơi cư trú” trong tiêu đề và nội dung Điều 18. Vì thực tế không ít cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo có nơi ở riêng tại nơi thờ tự nhưng chưa phải là nhà ở.
12- Về nơi cư trú của người được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo trợ (Điều 19)
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “thì là” thành “thì nơi cư trú của họ là”. Điều 19 viết lại như sau: “Nơi cư tú của người được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo trợ là địa chỉ của cơ sở nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo trợ đó; trường hợp người được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo trợ tại hộ gia đình, cá nhân thì nơi cư trú của họ là địa chỉ cư trú của hộ gia đình, cá nhân đó”.
13- Về quản lý cư trú đối với người không đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú (Điều 20)
Khoản 1:
+ Có ý kiến đề nghị sửa như sau “Người không có chỗ ở hợp pháp để đăng ký cư trú hoặc có chỗ ở hợp pháp nhưng không đủ điều kiện đăng ký thường trú thì phải khai báo với Công an xã, phường, thị trấn tại nơi sinh sống thường xuyên hoặc nơi ở hiện tại để đăng ký, quản lý và được cấp Giấy xác nhận về việc khai báo cư trú theo yêu cầu”. Vì người có chỗ ở hợp pháp có thể không được đăng ký thường trú vì không đủ điều kiện nhưng vẫn có thể được đăng ký tạm trú.
+ Có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Người không đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú…” vì “chỗ ở hợp pháp” là một trong các điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú theo quy định tại Điều 21 và Điều 26 dự thảo Luật.
14- Về điều kiện đăng ký thường trú tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Điều 21)
- Có kiến đề nghị sửa tiêu đề Điều 21 như sau “Điều kiện đăng ký thường trú” vì trong nội dung Điều 21 không có sự phân chia thành: Điều kiện đăng ký thường trú tại tỉnh và điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương như quy định của Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2013).
- Khoản 1: có ý kiến đề nghị chia khoản 1 thành hai điểm quy định đối với hai loại nhà ở thuộc chủ sở hữu và nhà ở thuộc nhà do thuê, mượn, ở nhờ của tổ chức, cá nhân. Cụ thể:
“(a) Chỗ ở hợp pháp thuộc chủ sở hữu của công dân do mua bán, tạo lập hoặc được tặng cho theo quy định của pháp luật thì không cần điều kiện thời gian tạm trú.
(b) Chỗ ở hợp pháp của công dân do thuê, mượn, ở nhờ của tổ chức, cá nhân thì cần điều điện thời gian tạm trú liên tục tại thành phố 02 năm”.
- Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể diện người đi thuê, đi mượn, đi ở nhờ không phải là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, thứ hai của chủ hộ vì nếu tính đến thừa kế thì đang nói về “tài sản” nghĩa là đang nói về quyền của người chủ sở hữu tài sản là “chỗ ở hợp pháp”. Trong khi đó Điều 11 dự thảo Luật thì không quy định chủ hộ phải là người đứng tên sở hữu tài sản là “chỗ ở hợp pháp”
+ Điểm b khoản 1: có ý kiến rằng đối với nhà đã có “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và nhà ở” thì trong đó đã có diện tích sàn xây dựng, cơ quan đăng ký cư trú căn cứ số nhân khẩu đang cư trú để tính diện tích bình quân trên người, không cần phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã để hạn chế phiền hà cho nhân dân.
Việc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận về điều kiện diện tích bình quân chỉ áp dụng với nhà chưa được cơ quan quản lý nhà, đất ghi nhận diện tích sàn xây dựng của căn nhà mà người thuê, mượn, ở nhờ để đăng ký thường trú.
Vì vậy, đề nghị sửa lại điểm b khoản 1 như sau: “Bảo đảm điều kiện về diện tích bình quân theo quy định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; nhà đã được cơ quan quản lý nhà, đất ghi nhận diện tích sàn xây dựng của căn nhà thì cơ quan đăng ký thường trú lấy làm căn cứ để tính diện tích bình quân; nhà chưa được cơ quan quản lý nhà, đất ghi nhận diện tích sàn xây dựng của căn nhà, thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn về điều kiện diện tích bình quân”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “Đối với địa bàn đô thị” vào đầu nội dung điểm b khoản 1vì điều kiện diện tích ở bình quân không thể áp dụng cho nông thôn nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Điểm b khoản 1 viết lại như sau: “Đối với địa bàn đô thị bảo đảm điều kiện về diện tích bình quân theo quy định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;…”
- Khoản 2: có ý kiến đề nghị bỏ khoản 2 vì trùng lặp với các điểm e và điểm g của Điều 22.
15- Về thủ tục đăng ký thường trú (Điều 22)
- Điểm a khoản 2: có ý kiến đề nghị bổ sung như sau: “Phiếu báo thay đổi thông tin dân cư, Bản khai nhân khẩu (đối với các trường hợp phải khai báo vào theo quy định) và giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp” vì trong một số trường hợp hồ sơ đăng ký thường trú cũ đã có sẵn Bản khai nhân khẩu thì không cần yêu cầu người dân phải khai lại.
- Khoản 5: có ý kiến đề nghị sửa khoản 5 như sau: “Chính phủ quy định chi tiết điều này”.
- Khoản 6: có ý kiến đề nghị bỏ khoản 6 vì khi Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Cư trú có thể quy định: Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết điều này.
16- Về địa điểm không được đăng ký thường trú, tạm trú (Điều 23)
Điều 23 dự thảo Luật quy định đối với chỗ ở đã có phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì không được đăng ký thường trú, tạm trú mới. Trong trường hợp thời gian cho phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của các cơ quan nhà nước kéo dài, cần xem lại quyền của công dân về cư trú để có quy định phù hợp trong dự thảo Luật.
Đề nghị bổ sung trường hợp không được đăng ký thường trú mới là nhà ở đã không còn thuộc sở hữu của chủ hộ (nhà đã bán cho người khác nhưng các thành viên trong hộ chưa xóa đăng ký thường trú tại địa chỉ đó).
17- Về xóa đăng ký thường trú (Điều 24)
- Có ý kiến đề nghị quy định bổ sung về trường hợp bị xóa đăng ký thường trú:“Thi hành nghĩa vụ quân sự” và “Người bị cấm cư trú” (theo Điều 42 Bộ luật Hình sự năm 2015).
- Khoản 1: có ý kiến đề nghị bổ sung quy định trường hợp xóa đăng ký thường trú đối với người chấp hành án, quyết định của Tóa án từ 12 tháng trở lên tại các cơ sở tập trung (bao gồm: người chấp hành án phạt tù có thời hạn từ 12 tháng trở lên; người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc trường giáo dưỡng).
+ Điểm b khoản 1 quy định về xóa đăng ký thường trú đối với người “ra nước để ngoài định cư”. Có ý kiến cho rằng hiện nay việc xóa đăng ký thường trú đối với các trường hợp ra nước ngoài định cư gặp nhiều khó khăn, do các trường hợp ra nước ngoài định cư không tiến hành khai báo với cơ quan Công an nơi đăng ký hộ khẩu thường trú để làm các thủ tục xóa hộ khẩu; việc xóa hộ khẩu phải thông qua công tác quản lý nhân hộ khẩu vắng quá 12 tháng mới thực hiện xóa đăng ký thường trú. Ý kiến này đề nghị bổ sung vào điểm b khoản 1 quy định theo hướng “Yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành làm thủ tục cho các trường hợp công dân ra nước ngoài định cư có văn bản hoặc thông báo cho cơ quan Công an nơi công dân đăng ký hộ khẩu thường trú biết để tiến hành hoàn thành các thủ tục xóa đăng ký thường trú”
+ Điểm d khoản 1: có ý kiến đề nghị xem lại quy định người “vắng mặt tại nơi thường trú từ 12 tháng liên tục mà không đăng ký tạm trú ở nơi nào hoặc không khai báo tạm vắng với Công án xã, phường, thị trấn nơi thường trú” thì bị xóa hộ khẩu. Ý kiến này cho rằng như vậy sẽ gây nhiều khó khăn trong thực tế không chỉ với người dân mà cả với cán bộ quản lý do hiện nay, có nhiều công việc đặc thù nên nhiều người phải đi vắng một thời gian dài, hoặc vì một vài lý do cá nhân phát sinh mà người dân không thể trở về địa phương đúng thời hạn nên không thực hiện khai báo.
Trường hợp thực hiện theo quy định này, chỉ cần khai báo tạm vắng thì vắng mặt không thời hạn là cũng không thể xóa đăng ký thường trú. Vấn đề này sẽ tạo kẻ hở trong quản lý cư trú (một người không cư trú thường xuyên ở nơi đã đăng ký thường trú thì vẫn không bị xóa thường trú).
Ngoài ra, thực tế việc nhập lại hộ khẩu cũng rất nhiều thủ tục gây ảnh hưởng không cần thiết với người dân. Trong khi, công tác quản lý nhân khẩu đã có quy định về đăng ký tạm trú, tạm vắng.
+ Điểm e khoản 1: có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chuyển hộ khẩu” vì theo điểm đ khoản 1 Điều 22 Luật Cư trú hiện hành thì “Đăng ký thường trú ở nơi cư trú mới; trong trường hợp này, cơ quan đã làm thủ tục đăng ký thường trú cho công dân ở nơi cư trú mới có trách nhiệm thông báo ngay cho cơ quan đã cấp giấy chuyển hộ khẩu để xóa đăng ký thường trú ở nơi cư trú cũ” nhưng thực tế có tình trạng công dân đã đăng ký thường trú nơi mới không liên hệ với cơ quan Công an nơi thường trú cũ để lập thủ tục xóa đăng ký thường trú.
+ Điểm g, điểm h khoản 1: có ý kiến đề nghị gộp nội dung điểm g và điểm h thành một trường hợp là “Người không còn chỗ ở hợp pháp theo quy định của Luật này” để đảm bảo cho công tác quản lý về cư trú hiệu quả và kịp thời.
- Khoản 3:
+ Có ý kiến cho rằng thực tế đặt ra: Người bị xóa đăng ký thường trú theo quy định tại các điểm b, d khoản 1 Điều này khi trở lại địa phương sinh sống, mà họ muốn đăng ký lại thường trú vào nơi ở hợp pháp mới thì phải giải quyết theo nguyện vọng của họ. Vì vậy, đề nghị sửa khoản 3 như sau: “Đối với người bị xóa đăng ký thường trú theo quy định tại các điểm b, d khoản 1 Điều này được đăng ký lại nơi thường trú trước đây khi trở lại địa phương sinh sống. Nếu nơi thường trú trước đây không còn thì được đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp mới hoặc địa chỉ của các thành viên hộ gia đình trước khi bị xóa đăng ký thường trú, nếu được chủ hộ nơi thường trú mới đồng ý.”.
+ Có ý kiến cho rằng nên quy định điều kiện thực tế nơi cư trú và thời gian thường xuyên sinh sống theo quy định tại khoản 2 Điều 2 về “nơi đang sinh sống”. Vì trong trường hợp người bị xóa đăng ký thường trú do ra nước ngoài định cư nhưng hộ vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam (người có hai quốc tịch) thường xuyên đi lại giữa hai nước hoặc các trường hợp bị xóa vắng quá 12 tháng nay nhà đã bán được đăng ký thường trú vào địa chỉ của các thành viên hộ gia đình trước khi bị xóa thì họ sẽ không thực tế thường xuyên sinh sống tại địa chỉ đăng ký thường trú đó.
18- Về thay đổi, điều chỉnh thông tin về cư trú của công dân (Điều 25)
Theo khoản 1 Điều 25 thì người chuyển nơi thường trú thì trong thời gian 12 tháng có trách nhiệm làm thủ tục thay đổi nơi thường trú tại công an xã, phường, thị trấn. Đề nghị cần quy định chi tiết về thủ tục, hồ sơ đăng ký thay đổi nơi thường trú có yêu cầu người đăng ký cung cấp cho công an (nói rõ nơi đi hay nơi đến), tránh để công dân phải đi lại nhiều lần.
19- Về đăng ký tạm trú (Điều 26)
- Điều 26 quy định về đăng ký tạm trú, theo đó người đến đăng ký tạm trú phải xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở hợp pháp đang cư trú, hoặc có văn bản đồng ý của người cho thuê, mượn, cho ở nhờ. Quy định như vậy chưa phù hợp với các trường hợp chuyển đến tạm trú với người thân trong gia đình. Đề nghị cần xem xét bổ sung quy định đối với người đến đăng ký tạm trú là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, thứ hai của chủ hộ nơi tạm trú.
- Khoản 2:
+ Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “nhà ở” thành từ “chỗ ở”; bổ sung cụm từ “tổ chức” sau cụm từ “cá nhân”. Khoản 2 viết lại như sau: “Người đến đăng ký tạm trú phải kê khai nộp Bản khai nhân khẩu, Phiếu báo thay đổi thông tin dân cư và xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng chỗ ở hợp pháp đang cư trú; trường hợp chỗ ở hợp pháp là nhà do thuê, mượn hoặc ở nhờ của cá nhân, tổ chức thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản với nội dung cho đăng ký tạm trú tại địa điểm đang thuê, mượn, ở nhờ”.
+ Có ý kiến cho rằng để đảm bảo đầy đủ và đồng bộ với nội dung quy định tại Điều 13, Điều 14 dự thảo Luật, đề nghị bổ sung quy định về thành phần hồ sơ thể hiện ý kiến của cha, mẹ hoặc người giám hộ trong trường hợp người đăng ký tạm trú là người chưa thành niên hoặc người được giám hộ theo các trường hợp quy định tại Điều 13, Điều 14 dự thảo Luật.
- Khoản 4: có ý kiến đề nghị sửa như sau “Chính phủ quy định chi tiết điều này”.
20- Về xóa đăng ký tạm trú (Điều 27)
- Khoản 1:
+ Có ý kiến cho rằng thực tế hầu hết người đăng ký tạm trú thuộc diện người ở thuê, mượn nơi ở, ở nhờ. Do vậy khi người tạm trú đã trả lại nơi ở thuê, ở mượn, ở nhờ đến xã, phường, thị trấn khác tạm trú nếu để 06 tháng trở lên mới xóa nơi tạm trú trước thì việc thống kê quản lý cư trú không chính xác. Đề nghị sửa lại khoản 1 như sau: “Trường hợp người đã đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống, làm việc, học tập từ 03 tháng trở lên tại địa phương đã đăng ký tạm trú; người đã đăng ký tạm trú không còn chỗ ở hợp pháp đã đăng ký tạm trú thì cơ quan đã giải quyết đăng ký tạm trú phải cập nhật việc xóa đăng ký tạm trú của công dân vào Cơ sở dữ liệu về cư trú, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.”.
+ Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 1 trường hợp xóa đăng ký tạm trú “khi đã được đăng ký tạm trú ở nơi mới”.
- Khoản 4: có ý kiến đề nghị sửa như sau “Chính phủ quy định chi tiết điều này”.
21- Về lưu trú và thông báo lưu trú (Điều 28)
- Khoản 1: có ý kiến đề nghị sửa cụm từ “Cơ sở lưu trú du lịch” thành cụm từ “Cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú” để tránh việc thiếu các cơ sở lưu trú khác. Khoản 1 viết lại như sau: “Đại diện gia đình, nhà ở tập thể, cơ sở chữa bệnh, cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú…”.
- Khoản 2: có ý kiến đề nghị bổ sung trường hợp “…bác, cô, chú, cậu, dì ruột đến lưu trú nhiều lần thì chỉ cần thông báo lưu trú một lần”.
- Khoản 3: có ý kiến đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định “Việc thông báo lưu trú được ghi vào sổ tiếp nhận lưu trú và cập nhật lưu trữ trong chương trình tiếp nhận lưu trú trên thiết bị công nghệ thông tin của Công an cấp xã” vì theo lộ trình, thời gian tới việc quản lý cư trú sẽ được thực hiện thông qua các phần mềm trên máy vi tính.
22- Về khai báo tạm vắng (Điều 29)
- Điểm a, khoản 1: có ý kiến đề nghị sửa như sau “Các trường hợp bị hạn chế quyền tự do cư trú được quy định tại Điều 9 của luật này và người đã được Ủy ban nhân dân cấp xã giao cho gia đình hoặc tổ chức quản lý trong thời gian làm thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi đi khỏi địa bàn xã, phường, thị trấn nơi cư trú từ 01 ngày trở lên có trách nhiệm khai báo tạm vắng” vừa ngắn gọn nhưng bảo đảm sự thống nhất với các điều khoản khác trong dự thảo Luật.
- Khoản 2: có ý kiến đề nghị sửa như sau “Người quy định tại khoản 1 Điều này hoặc chủ hộ phải khai báo tạm vắng trước khi người đó đi khỏi nơi cư trú tại Công an cấp xã nơi người đó cư trú…” vì thực tế có trường hợp công dân không khai báo tạm vắng lúc đi khỏi nơi cư trú mà khai báo lúc quay về hoặc không khai báo gây khó khăn cho công tác quản lý.
- Khoản 3: có ý kiến đề nghị sửa như sau “Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết điều này”.
23- Về trách nhiệm của Ủy ban nhân các cấp trong quản lý cư trú (Điều 32)
- Khoản 3: có ý kiến đề nghị chuyển nội dung khoản 3 Điều 32 thành một khoản quy định tại Điều 33 dự thảo Luật sẽ phù hợp với trách nhiệm, chức năng của cơ quan đăng ký, quản lý cư trú.
24- Về trách nhiệm của cơ quan đăng ký, quản lý cư trú (Điều 33)
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm “Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cư trú” vào Điều 33 dự thảo Luật để bảo đảm đầy đủ trách nhiệm của cơ quan đăng ký, quản lý cư trú.
25- Về hủy bỏ việc đăng ký thường trú, tạm trú trái pháp luật (Điều 35)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 35 quy định về trường hợp xóa đăng ký thường trú, tạm trú do không đúng thủ tục. Vì đây là trường hợp không tuân thủ nguyên tắc được trình bày tại Điều 4 Luật Cư trú.
- Có ý kiến đề nghị tách Điều 35 thành hai khoản riêng và chuyển vào Điều 33 dự thảo Luật sẽ phù hợp với “Trách nhiệm của cơ quan đăng ký, quản lý cư trú”. Điều 35 viết lại như sau cụ thể:
(1)“Trường hợp cơ quan, người có trách nhiệm thực hiện việc đăng ký thường trú, tạm trú không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng và điều kiện theo quy định của Luật này thì thủ trưởng cơ quan đăng ký, quản lý cư trú cấp trên trực tiếp có trách nhiệm hủy bỏ việc đăng ký đó.
(2) Căn cứ quyết định của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan đã đăng ký thường trú, tạm trú có trách nhiệm thực hiện việc xóa đăng ký thường trú, tạm trú và cập nhật lại nơi thường trú, tạm trú trước đó vào Cơ sở dữ liệu về cư trú, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.”
26- Về cơ sở dữ liệu về cư trú (Điều 36)
Khoản 4: có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Chính phủ quy định chi tiết điều này”.
27- Về thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng dữ liệu về cư trú (Điều 37)
- Điểm b, khoản 2: có ý kiến đề nghị sửa lại như sau: “Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công an bố trí kinh phí thường xuyên cho hoạt động của hệ thống Cơ sở dữ liệu về cư trú; quy định cụ thể đối tượng, mức thu và việc quản lý, sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về cư trú”. Vì theo Mục 2, Danh mục Lệ phí đính kèm Luật Phí và Lệ phí năm 2015 quy định Lệ phí đăng ký cư trú do “Bộ Tài chính quy định đối với hoạt động do cơ quan trung ương cấp”; “Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định đối với hoạt động do cơ quan địa phương thực hiện”.
- Khoản 3: có ý kiến đề nghị sửa như sau “Chính phủ quy định chi tiết điều này”.