I. VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI
1- Cử tri đề nghị Quốc hội nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật đảm bảo đúng tiến độ đã đề ra. Cần tổ chức lấy ý kiến sâu rộng đối với các đối tượng chịu sự tác động của văn bản. Đảm bảo thời gian lấy ý kiến phù hợp để tránh tình trạng góp ý mang tính hình thức.
2- Cử tri đề nghị Quốc hội và Chính phủ cần bổ sung các quy định trong hoạt động kinh doanh đối với loại hình bán hàng đa cấp và kinh doanh bất động sản, để tránh tình trạng lừa đảo người dân như bán hàng kém chất lượng với giá cao, việc lừa đảo kinh doanh bất động sản của công ty ALIBABA tại thành phố Hồ Chí Minh, công ty Hưng Thịnh tại Long An
3- Cử tri mong muốn Quốc hội và Chính phủ cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật đất đai năm 2013 về công tác quản lý đất đai, công tác quy hoạch, triển khai các dự án phải phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương, nhằm bảo hòa giữa quyền lợi của nhà nước và quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân. Trong đó cũng cần quan tâm việc thực hiện dự án của các chủ đầu tư, không để tình trạng kéo dài dự án không thực hiện do sự yếu kém của các chủ đầu tư.
4- Cử khi kiến nghị Quốc hội sớm ban hành Luật Biên phòng Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả quản lý trong công tác biên phòng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự ở khu vực biên giới.
5- Cử tri đề nghị cần nâng cao hơn nữa vai trò giám sát của Quốc hội trong công tác phòng chống tham nhũng, công tác quản lý đất đai, tài sản công; giám sát việc triển khai các dự án đầu tư xây dựng các công trình công cộng, tránh tình trạng phải tăng vốn trong quá trình thực hiện; giám sát việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật của các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, trong đó tăng cường giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp.
6- Cử tri đề nghị trong nhiệm kỳ tới, cần tăng số lượng các đại biểu chuyên trách, giảm đại biểu kiêm nhiệm nhằm giúp đại biểu Quốc hội thực hiện tốt vai trò giám sát của mình; đồng thời có thể đeo bám sâu sát vào đời sống nhân dân cũng như có thể phản ánh, kiến nghị Quốc hội, Chính phủ giải quyết kịp thời các vấn đề người dân cần giải quyết.
7- Cử tri quan tâm đến các quy định dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi). Cử tri phản ánh từ năm 2006, Quốc hội thông qua Luật Cư trú, sau đó sửa đổi nhưng đến nay bộc lộ nhiều bất cập buộc thay đổi, cử tri cho rằng cần bỏ hình thức quản lý bằng hộ khẩu như chuyển sang quản lý bằng định danh cá nhân qua cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
8- Cử tri quan tâm nhiều đến vấn đề Biển Đông và đề xuất Quốc hội cần có nghị quyết về Biển Đông. Cử tri đề nghị Đảng, Nhà nước cần tiếp tục kiên quyết, kiên trì thực hiện các biện pháp phù hợp trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, kịp thời thông tin đến nhân dân; tăng cường tiềm lực quốc phòng nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
II. VỀ KINH TẾ
1- Cử tri tin tưởng, đồng tình, đánh giá cao sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống dịch Covid-19, sự vào cuộc tích cực của của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, các địa phương để thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch, ứng phó, ngăn chặn hiệu quả sự lây lan của dịch bệnh. Chính phủ đã có giải pháp nhằm ổn định thị trường, kịp thời ban hành và triển khai các chính sách hỗ trợ đến doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng của dịch bệnh. Tuy nhiên, cử tri lo lắng trước tình hình dịch bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Nhiều doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, tạm ngừng hoạt động; lao động mất việc làm, thiếu việc làm tăng, thu nhập không ổn định, nhất là trong các ngành dịch vụ, du lịch, vận tải; giá một số mặt hàng thiết yếu trên thị trường có nhiều biến động; một số đối tượng lợi dụng gom hàng, đẩy giá lên cao; việc xuất khẩu gạo có những thời điểm còn lúng túng, chậm được xử lý. Cử tri kiến nghị Chính phủ tăng cường tuyên truyền và thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid - 19 trong giai đoạn mới; đồng thời có giải pháp để phục hồi nền kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2- Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất cả nước về dân số và quy mô kinh tế; là đầu tàu, động lực, có sức hút và lan tỏa không chỉ đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam mà còn đến các vùng kinh tế khác trong cả nước. Trong lĩnh vực tài chính – ngân sách, là địa phương tự đảm bảo cân đối ngân sách và có số thu ngân sách Nhà nước chuyển về Trung ương cao nhất trong 63 tỉnh thành.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, để đáp ứng đủ nhu cầu vốn cần thiết cho đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Thành phố Hồ Chí Minh cần nhiều nguồn vốn hơn nữa. Tuy nhiên, trong giai đoạn gần đây, tỷ lệ điều tiết cho ngân sách thành phố có xu hướng giảm qua từng thời kỳ ổn định ngân sách từ 33% (năm 2000) và sau 20 năm giảm còn 18% vào năm 2020. Tỷ lệ điều tiết giảm mạnh dẫn đến việc cân đối ngân sách của thành phố ngày càng trở nên khó khăn khi bước vào thời kỳ ổn định ngân sách mới giai đoạn 2021- 2025 với nhiều thách thức về hạ tầng kỹ thuật, tệ nạn xã hội, sự không bền vững về lao động, dân số, tài chính địa phương và việc giữ vững vai trò đầu tàu của thành phố. Qua tổng kết sơ bộ kết quả hơn 10 năm phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cho thấy sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh tác động trực tiếp đến sự phát triển của kinh tế Vùng nói riêng và cả nước nói chung.
Vì vậy, việc tăng tỷ lệ điều tiết cho Thành phố Hồ Chí Minh tác động tích cực đến sự phát triển của Vùng, đặc biệt là lĩnh vực hạ tầng giao thông. Thành phố sẽ có thêm nguồn lực để thực hiện một số dự án đầu tư hạ tầng giao thông liên kết vùng với một số tỉnh có chung ranh giới địa lý trong vùng như Đầu tư xây dựng đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, Dự án Xây dựng, Mở rộng Quốc lộ 1, Dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 22, Dự án mở rộng Quốc lộ 50… Các dự án đầu tư hạ tầng giao thông liên kết vùng hoàn thành sẽ tạo thuận lợi trong giao thương phát triển sản xuất kinh doanh giữa các tỉnh trong Vùng nói riêng cũng như giữa các tỉnh, thành phố trong cả nước nói chung.
Do đó, kiến nghị Trung ương cần xem xét tăng tỷ lệ điều tiết cho thành phố Hồ Chí Minh nhằm tháo gỡ nút thắt để thúc đẩy sự phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; đồng thời, cũng là biện pháp nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách nhà nước phát sinh trên địa bàn Vùng, nơi có nhiều tỉnh thành điều tiết số thu lớn về ngân sách trung ương.
3- Tại Khoản 2 Điều 89 Luật Đầu tư công năm 2019 quy định như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân và người đứng đầu tổ chức quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án có thời gian thực hiện trong 02 kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn liên tiếp phải bảo đảm tổng giá trị tổng mức đầu tư của các chương trình, dự án phải thực hiện trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn sau không vượt quá 20% tổng số vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn trước của Bộ, cơ quan trung ương, địa phương đó”.
Tại Khoản 1 Điều 16 Luật Đầu tư công năm 2019 quy định như sau: “Quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; không xác định được nguồn vốn và khả năng cân đối vốn; không đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật”.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, tổng số vốn đầu tư bố trí từ nguồn vốn ngân sách thành phố cho các dự án trong giai đoạn trung hạn 2016-2020 được Hội đồng nhân dân thành phố thông qua là 150.000 tỷ đồng. Như vậy, tổng vốn đầu tư còn lại của các dự án đã được quyết định chủ trương đầu tư trong giai đoạn 2016-2020 chuyển tiếp qua giai đoạn 2021-2025 không được vượt quá 30.000 tỷ đồng (=20%×150.000 tỷ đồng).
Đến ngày Luật Đầu tư công năm 2019 bắt đầu có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm 2020), Thành phố đã thông qua chủ trương đầu tư các dự án theo quy định Luật Đầu tư công năm 2014 với tổng nhu cầu vốn chuyển tiếp qua giai đoạn 2021-2025 vượt quá 20% tổng số vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, do Luật Đầu tư công năm 2019 mới quy định việc xem xét số vốn chuyển tiếp giữa 02 giai đoạn trung hạn khi quyết định chủ trương đầu tư dự án; đồng thời, các dự án nêu trên đã được quyết định chủ trương đầu tư trước thời điểm Luật Đầu tư công năm 2019 có hiệu lực và Luật Đầu tư công năm 2014 không có quy định nội dung này nên không vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 89 Luật Đầu tư công năm 2019 nêu trên.
Hiện nay, các dự án mới đang được Thành phố xem xét quyết định chủ trương đầu tư phải tuân thủ quy định Điều 89 Luật Đầu tư công năm 2019 khi tiến hành thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn. Với tổng nhu cầu vốn chuyển tiếp qua giai đoạn 2021-2025 đã vượt 20% tổng số vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Trong thời điểm hiện nay, nếu thực hiện việc quyết định chủ trương đầu tư dự án mới, sẽ vi phạm quy định của Luật Đầu tư công năm 2019. Quy định này gây ra khó khăn cho các địa phương khi thực hiện thẩm định chủ trương đầu tư đối với các dự án có thời gian thực hiện trong 02 kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn liên tiếp (được biết, Hà Nội cũng đang gặp khó khăn đối với quy định này), đặc biệt đây là thời điểm giao thoa giữa Luật Đầu tư công năm 2014 và Luật Đầu tư công năm 2019.
Kiến nghị Trung ương tháo gỡ nội dung này, đề xuất quy định nhu cầu vốn chuyển tiếp tại Điều 89 sẽ bắt đầu áp dụng đối với kỳ trung hạn giai đoạn 2026 – 2030 (dự án chuyển tiếp từ 2021 – 2025 sang 2026 – 2030).
4- Ngày 06 tháng 3 năm 2020, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã có Công văn số 784/UBND-KT kiến nghị Bộ Tài chính trình Chính phủ đề xuất Ủy ban Thường vụ Quốc hội chấp thuận bổ sung có mục tiêu cho ngân sách thành phố từ nguồn vượt thu ngân sách Trung ương trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2019 với số tiền là 6.642 tỷ đồng (70% khoản vượt thu ngân sách Trung ương hưởng 100%). Kiến nghị với Trung ương xem xét chấp thuận đề xuất của Ủy ban nhân dân Thành phố về nội dung này theo đúng quy định tại điểm 8, điều 5 Nghị quyết 54/2017/QH14 .
5- Từ khi Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hồ Chí Minh được thi hành (từ ngày 15/01/2018), thành phố Hồ Chí Minh chưa được hưởng 50% khoản thu tiền sử dụng đất khi bán tài sản công gắn liền trên đất (sau khi trừ đi số dự kiến bố trí dự toán chi đầu tư cho các Bộ, ngành, Tập đoàn, Tổng Công ty Nhà nước) để đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ đầu tư công của thành phố do các đơn vị thuộc Trung ương chưa thực hiện các thủ tục bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy hoạch. Kiến nghị Chính phủ và các Bộ liên đẩy nhanh tiến độ thực hiện các thủ tục trên để thành phố sớm được hưởng khoản thu này theo cơ chế đã được Trung ương cho phép (tại điểm 9, điều 5, Nghị quyết 54/2017/QH14).
6- Cử tri đề nghị các Bộ, ngành chức năng cần xem xét tính lại giá điện một giá cho phù hợp, việc tính giá theo bậc đối với gia đình đông người, hộ ghép (không phải hộ kinh doanh) làm giá điện tăng rất nhiều gây khó khăn cho cuộc sống của người dân.
7- Cử tri đề nghị Chính phủ quan tâm và có nhiều chính sách hiệu quả phát triển nông nghiệp nông thôn như: phát triển lực lượng lao động trẻ cho nông nghiệp; cần quy hoạch phát triển sản phẩm nông nghiệp; chống phá giá để phát triển sản phẩm nông nghiệp (thịt heo, trái cây, rau củ…) nhằm hỗ trợ người nông dân yên tâm sản xuất, kinh doanh.
III. VỀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Về văn hoá, giáo dục
1.1- Cử tri và Nhân dân ghi nhận nỗ lực và cố gắng của ngành giáo dục trong thời gian qua, đồng tình và ủng hộ chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho học sinh, sinh viên nghỉ học để phòng chống dịch bệnh, triển khai dạy học qua internet, trên truyền hình, tăng cường mối liên hệ giữa gia đình và nhà trường trong việc tổ chức, hỗ trợ học sinh, sinh viên học tập. Bên cạnh đó, cử tri và Nhân dân còn băn khoăn về hiệu quả của việc giảng dạy trực tuyến, nhất là ở những nơi điều kiện kinh tế khó khăn; nhiều phụ huynh lo lắng việc học sinh, sinh viên nghỉ học dài ngày ảnh hưởng đến kế hoạch, chương trình, nội dung kiến thức học tập. Cử tri đề nghị ngành giáo dục cần có những phương án phù hợp để đảm bảo việc học và thi của học sinh sau thời gian nghỉ học do dịch bệnh; có cử tri đề nghị cần nghiên cứu giảm học phí đối với các học sinh có gia đình bị ảnh hưởng trong giai đoạn ứng phó với dịch Covid-19.
1.2- Cử tri tiếp tục đề nghị ngành giáo dục cần quan tâm nhiều hơn nữa việc giáo dục đạo đức, đào tạo con người, giáo dục phải kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội; cần tăng thời lượng dạy môn giáo dục công dân vì đây là môn học giáo dục về đạo đức, nhân cách con người; tăng thời gian dạy những bài học hay về đạo đức, những câu chuyện người tốt việc tốt nhằm tác động tích cực đến suy nghĩ và hành động của giới trẻ.
1.3- Ngày 16/3/2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV quy định về danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập.Theo đó, nhóm vị trí việc làm hỗ trợ, phục vụ gồm 4 vị trí (kế toán, văn thư, y tế và thủ quỹ), các công việc này thực hiện theo hướng kiêm nhiệm (được bố trí tối đa 2 người cho 4 vị trí việc làm), bảo đảm tiết kiệm biên chế theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tuy vậy, đây là một quy định không phù hợp với tình hình thực tế. Người làm kế toán, y tế đòi hỏi có chuyên môn nghiệp vụ được nhận vào cơ sở giáo dục mầm non với công việc kiêm nhiệm, mức lương không cao nhưng phải đảm nhận quá nhiều việc kiêm nhiệm văn thư, thủ quỹ nên thường nghỉ việc giữa chừng để tìm công việc bên ngoài phù hợp chuyên môn, nghiệp vụ và lương cao hơn. Đặc biệt, với đặc điểm là trung tâm kinh tế của cả nước, nghề kế toán và y tế thường được các công ty săn đón với mức lương hấp dẫn. Việc tuyển dụng của các trường mầm non gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các cơ sở mầm non. Kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ tính toán để có quy định phù hợp hơn, giải quyết khó khăn hiện tại của các cơ sở mầm non hiện nay.
2. Về y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường:
2.1- Cử tri đánh giá cao nỗ lực của ngành y tế về phòng, chống dịch bệnh Covid - 19 trong điều kiện một số nơi, đội ngũ nhân viên y tế, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn. Nhiều tấm gương tận tâm hết mình, không quản ngại ngày đêm, vất vả gian nan, hiểm nguy đã tiên phong, xông pha trên tuyến đầu chống dịch. Tuy nhiên, cử tri bức xúc về việc một số cán bộ lợi dụng việc đấu thầu, mua sắm thiết bị y tế để trục lợi, đề nghị các cơ quan chức năng khẩn trương làm rõ và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
2.2- Cử tri đề nghị cần thực hiện nhanh việc liên thông thẻ bảo hiểm y tế tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi khám bệnh trong các bệnh viện trong cùng tỉnh, thành phố vì hiện nay việc xin chuyển viện chuyên môn rất khó khăn.
2.3- Cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng, chính quyền các cấp đề cao trách nhiệm trong quản lý và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và người dân trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường, thường xuyên thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; tăng cường đầu tư cho công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường, phòng chống biến đổi khí hậu.
3. Về chế độ, chính sách :
3.1- Cử tri đề nghị Nhà nước cần có chính sách riêng đối với người dân tộc, không phân biệt là người dân tộc ở vùng sâu, vùng xa.
3.2- Cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ nghiên cứu có chính sách hỗ trợ đối với người có công cách mạng, tham gia kháng chiến nhưng về hưu có hệ số lương thấp vì hiện nay các đối tượng này đa số đều là người cao tuổi và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống; quan tâm có chính sách hỗ trợ vay vốn cho các đối tượng thuộc gia đình chính sách để giải quyết khó khăn trong cuộc sống.
3.3- Cử tri kiến nghị đối với gia đình có công cách mạng, gia đình Liệt sĩ việc sử dụng bằng Tổ Quốc Ghi Công, Huân, Huy chương,… hiện nay có bất cập khi mỗi lần giải quyết các vấn đề hành chính có liên quan thì các cơ quan yêu cầu phải nộp photocopy có sao y mới giải quyết, phải tháo xuống, gắn lên rất bất tiện, đề nghị cần có cách quản lý khác phù hợp hơn.
3.4- Cử tri đề nghị không quy định về độ tuổi đảm nhiệm chức vụ trong các Hội thay cho độ tuổi 65 như hiện nay mà chỉ cần đáp ứng về đạo đức, chuyên môn của người đứng đầu Hội.
3.5- Cử tri tiếp tục đề nghị Nhà nước cần tiếp tục quan tâm cải cách tiền lương và thu nhập cho cán bộ, công chức, người lao động để nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo an sinh xã hội, nhất là đối với đội ngũ cán bộ làm công tác cơ sở.
IV. THỰC THI PHÁP LUẬT
1- Cử tri quan tâm nhiều đến công tác cán bộ hiện nay và cho rằng, trong Đại hội Đảng các cấp và Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nhân dân mong muốn cán bộ, đảng viên được lựa chọn phải xứng đáng với vai trò lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới. Tuyệt đối không chọn nhầm người có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, lợi ích nhóm, quan liêu, bảo thủ, trì trệ, không vì lợi ích nhân dân, đất nước... Đối với việc tinh giản biên chế, cử tri đề nghị cần nghiên cứu hợp lý khi khối lượng công việc ở các xã phường quá nhiều nhưng cán bộ lại rất ít.
2- Cử tri đề nghị cần tiếp tục quyết liệt hơn nữa trong công tác phòng, chống tham nhũng; có biện pháp hiệu quả để thu hồi tài sản tham nhũng; giám sát chặt chẽ việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; xem xét xử lý nghiêm các vụ án tham nhũng nhằm mang tính răn đe.
3- Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, các địa phương tăng cường công tác cải cách hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người dân.
4- Cử tri tiếp tục đề nghị cần xem xét tăng nặng hình phạt đối với tội phạm ma túy, rà soát sửa đổi các quy định của pháp luật liên quan đến việc xử lý tội phạm mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy nhằm đáp ứng yêu cầu công tác phòng, chống ma túy trong thời gian tới.
5- Cử tri tiếp tục đề nghị các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát tình hình vi phạm pháp luật về an toàn giao thông, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về an toàn giao thông, nhất là tình trạng sử dụng bia rượu, chất kích thích, ma túy khi điều khiển phương tiện giao thông gây tai nạn nghiêm trọng.
6- Cử tri tiếp tục đề nghị các cơ quan chức năng tăng cường công tác quản lý và xử lý nghiêm các hành vi thông tin, truyền thông không đúng sự thật, xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước trên môi trường mạng; triển khai thực hiện có hiệu quả Luật An ninh mạng.
7- Cử tri lo lắng trước tình trạng chặt phá rừng, việc sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, khoáng sản ở một số địa phương không theo quy hoạch. Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, chính quyền các địa phương tăng cường công tác quản lý; thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc quy hoạch, quản lý, sử dụng đất, tài nguyên, khoáng sản; nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ rừng, trồng rừng, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
8- Cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương cần thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của công dân, nhất là các khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực đất đai, không để tình trạng khiếu kiện đông người, phức tạp kéo dài ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội.
9- Cử tri lo lắng trước tình trạng đạo đức xã hội đang xuống cấp, nhiều tệ nạn xã hội như bạo lực gia đình, chém giết nhau trên đường phố, nạn nghiện ma túy chưa được ngăn chặn; các vấn đề về xã hội như mại dâm, đánh bạc, bảo kê, cho vay nặng lãi, tín dụng đen, kinh doanh đòi nợ thuê theo kiểu xã hội đen đang diễn ra phức tạp, gây tâm lý bất ổn cho người dân làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Cử tri đề nghị các ngành, các cấp, các lực lượng chức năng tăng cường công tác trấn áp tội phạm, có những biện pháp quyết liệt để ngăn chặn các vấn đề trên, xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm để đảm bảo tính răn đe.
10- Cử tri quan tâm và có nhiều ý kiến liên quan đến phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đối với vụ án Hồ Duy Hải (tỉnh Long An) và đề nghị Quốc hội cần giám sát chặt chẽ về vụ việc này.
11- Về lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài:
- Kiến nghị Quốc hội sớm xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện luật, đảm bảo tương thích giữa pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài với các luật chuyên ngành có liên quan, sự tương thích pháp luật Việt Nam với pháp luật có liên quan của các nước tiếp nhận lao động, các công ước quốc tế về lao động di cư; rà soát bổ sung các hình thức hợp tác, dịch chuyển lao động mới phát sinh trong thời gian gần đây.
Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cần sửa đổi theo hướng xem việc đưa người Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một trong những giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong nước theo chiều sâu, phục vụ xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước hướng tới nền kinh tế tri thức, trên cơ sở đó lựa chọn các lĩnh vực ngành nghề, đối tượng người lao động và nước tiếp nhận lao động phù hợp. Cần nghiên cứu giảm dần tỷ trọng đưa người lao động phổ thông đi làm việc ở nước ngoài nhằm mục đích giải quyết việc làm và cải thiện thu nhập trước mắt, do người lao động phổ thông thường không được trang bị đầy đủ kỹ năng và định hướng phát triển lâu dài; tăng cường việc định hướng và trang bị kỹ năng chuyên môn, tác phong làm việc chuyên nghiệp, khả năng hòa nhập văn hóa nước sở tại để người lao động đi làm việc ở nước ngoài trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp cho sự phát triển kinh tế của đất nước trong tương lai.
- Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu hoàn thiện các văn bản có liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động như công tác phối hợp quản lý, quy trình tuyển chọn, đào tạo lao động đi làm việc ở nước ngoài, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hoạt động, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài đặc biệt là hộ nghèo, thanh niên, quân nhân xuất ngũ. Bổ sung và sửa đổi những cơ chế, chính sách còn thiếu hoặc không phù hợp, như chính sách đầu tư mở thị trường; chính sách đào tạo và tín dụng cho người lao động đi xuất khẩu; tiếp nhận và giải quyết việc làm sau khi người lao động hoàn thành hợp đồng về nước; chính sách ưu đãi, hỗ trợ về tài chính, mở rộng đối tượng được cho vayđể người lao động được tiếp cận khi có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài, đặc biệt đối với những người lao động có hoàn cảnh khó khăn; chính sách hỗ trợ tạo việc làm và khuyến khích tạo việc làm cho người lao động sau khi về nước theo hướng cụ thể hơn, quy định rõ trách nhiệm cụ thể của từng cấp, từng cơ quan; chính sách khuyến khích với những doanh nghiệp tuyển dụng sau khi người lao động về nước; nguồn kinh phí tạo việc làm cho người lao động; chính sách cho người lao động vay vốn để tự tạo việc làm, khởi sự doanh nghiệp v.v...Thực hiện quản lý tốt các doanh nghiệp, đơn vị hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài nhằm hạn chế tình trạng các đối tượng xấu môi giới hưởng chênh lệch ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động cũng như đối với các doanh nghiệp hoạt động đúng theo quy định của nhà nước, đảm bảo cạnh tranh công bằng, cung cấp thông tin trung thực đến người lao động.
Tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đối với chính quyền địa phương trước, trong và sau khi lao động tại địa phương đi làm việc ở nước ngoài (đặc biệt là cấp tỉnh và cấp xã); đồng thời sửa đổi các quy định liên quan về quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp dịch vụ trong mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước về lao động tại địa phương phù hợp với nội dung phân cấp (quy định minh bạch về hình thức, nội dung, thời hạn mà doanh nghiệp phải thông báo hoặc báo cáo cơ quan quản lý lao động tại địa phương khi thực hiện việc tuyển dụng lao động; trách nhiệm thông báo tình hình lao động hoàn thành hợp đồng về nước, về nước trước thời hạn, việc chấp hành pháp luật trong thời gian làm việc ở nước ngoài, các trường hợp rủi ro, tai nạn…);
- Kiến nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội xem xét tăng cường phân cấp quản lý các hoạt động về lĩnh vực xuất khẩu lao động cho các địa phương. Cụ thể đề xuất nên cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chủ động trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo các Sở, ngành của thành phố thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước trên địa bàn như: quy định trách nhiệm của các doanh nghiệp về việc báo cáo tình hình hoạt động, thông báo đến cơ quan quản lý lao động cấp tỉnh, thành phố về hợp đồng cung ứng lao động tại các thị trường, tình hình lao động đang làm việc ở nước ngoài, lao động về nước và đặc biệt kịp thời báo cáo tình hình người lao động bỏ trốn ra ngoài hợp đồng, người lao động có hành vi lôi kéo, dụ dỗ người lao động khác bỏ trốn… để địa phương chủ động phối hợp với các ngành chức năng có giải pháp giải quyết.
+ Kịp thời triển khai, cập nhật các thông tin về chính sách, chủ trương, định hướng chung của nhà nước về lĩnh vực xuất khẩu lao động để các địa phương nắm bắt và có kế hoạch triển khai phù hợp với thực tế. Thường xuyên tổ chức tập huấn và cập nhật cho cán bộ Sở Lao động, Thương binh và Xã hội về chuyên môn nghiệp vụ trong công tác quản lý, các kiến thức và quy định có liên quan đến thị trường lao động các nước để kịp thời tham mưu lãnh đạo thành phố các giải pháp thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi nước ngoài làm việc theo hợp đồng, có chế tài xử lý kiên quyết những trường hợp lao động vi phạm hợp đồng, yêu cầu phải bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp theo các điều khoản của hợp đồng đã ký.
+ Hoàn thiện và pháp quy hóa quy trình tuyển chọn, đào tạo lao động đi làm việc ở nước ngoài; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động của chính quyền địa phương các cấp; Chính quyền địa phương giám sát việc tuyển lao động, giới thiệu cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động những người lao động có nhân thân rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt, gia đình chấp hành tốt chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Địa phương cần hỗ trợ mạnh hơn nữa cho người lao động trong vay vốn và tạo điều kiện thuận lợi trong việc làm các thủ tục cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
+ Tiếp tục triển khai và hoàn thiện mô hình liên thông về xuất khẩu lao động nhằm giảm phiền hà và tốn kém cho người lao động. Thông qua mô hình liên thông, doanh nghiệp đến với người lao động có sự giám sát hỗ trợ của chính quyền địa phương. Các doanh nghiệp kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để tuyển lao động; doanh nghiệp công khai minh bạch với chính quyền địa phương và người lao động về các điều kiện của hợp đồng, đặc biệt là các khoản đóng góp của người lao động, qua đó giúp cho người lao động giảm được các chi phí không cần thiết, tạo điều kiện làm các thủ tục hành chính và vay vốn trang trải cho những chi phí ban đầu tại các ngân hàng địa phương.
- Về thủ tục vay vốn đối với ngân hàng chính sách các tỉnh, thành phố thực hiện theo hướng dẫn tại văn bản số 7886/NHCS-TDNN ngày 24/10/2019 của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam. Trong đó, mục 12 quy định về giải ngân số tiền vay như sau: “ Ngân hàng chính sách xã hội giải ngân vốn vay cho khách hàng nơi cho vay bằng hình thức chuyển khoản cho doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài….”. Hiện nay, để được xuất cảnh sang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, người lao động sẽ phải chi phí rất nhiều khoản như: chi phí khám sức khỏe, chi phí làm hộ chiếu, chi phí làm lý lịch tư pháp, chi phí xin visa, chi phí ăn, tiền thuê nhà trọ học để đạt điều kiện, tiêu chuẩn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Các khoản phí nêu trên, người lao động sẽ đóng phí trực tiếp cho các cơ quan thực hiện thủ tục. Những khoản chi phí này Doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài không thu, do vậy quy định chuyển khoản tất cả tiền vay của người lao động cho Doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là không phù hợp. Để tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận vốn vay phù hợp với quy định pháp luật, kiến nghị cơ quan chức năng yêu cầu Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam rà soát, điều chỉnh những quy định chưa phù hợp trong văn bản số 7886/NHCS-TDNN ngày 24/10/2019 của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam.
- Về quản lý lao động làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân: Hiện nay, nhiều lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài không xin phép cơ quan có thẩm quyền, không thông qua doanh nghiệp phái cử, tuy nhiên việc kiểm soát số lượng lao động này còn chưa chặt chẽ, không đảm bảo yêu cầu về quản lý nguồn lao động của nhà nước Việt Nam, người lao động làm việc chui, không được sự bảo hộ của Nhà nước Việt Nam trong trường hợp cần thiết. Để hạn chế tình trạng này, kiến nghị như sau:
+ Đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài không qua doanh nghiệp phái cử: Khi người lao động làm thủ tục xuất cảnh, ngoài các giấy tờ theo quy định của Cục Quản lý Xuất nhập cảnh, phải xuất trình Giấy xác nhận đăng ký hợp đồng của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội nơi người lao động thường trú, nếu không có văn bản này thì không được xuất cảnh. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cần phối hợp với Bộ Công an có văn bản triển khai thực hiện việc này. Bên cạnh đó, cần công bố các thông tin, điều kiện người lao động đi làm việc ở nước ngoài không qua cơ quan phái cử trên trang thông tin của Bộ, Cục và Sở;
+ Trường hợp lao động kỹ năng đặc định sang Nhật Bản làm việc: Hiện tại có rất nhiều công dân Việt Nam lợi dụng việc xin visa ngắn hạn để đi du lịch, sau đó sang Nhật Bản thi và xin visa lao động. Trường hợp này phải được kiểm soát chặt chẽ, đăng ký với Cục Quản lý Xuất nhập cảnh, kiểm soát visa đi để làm gì, hết hạn visa thì phải về nước, Nhật Bản chỉ được tuyển lao động đặc định theo đúng thoả thuận với Việt Nam, phải tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cần gửi công hàm cho Chính phủ Nhật Bản yêu cầu tuân thủ pháp luật hai nước trước khi nhận lao động Việt Nam, không được phá vỡ các cam kết trong MOC (Bản ghi nhớ hợp tác về chế độ thực tập sinh kỹ năng). Các đối tượng không thuộc trường hợp được tham gia chương trình kỹ năng đặc định thì Nhật Bản không được cấp visa; Các Bộ ngành liên quan cần sớm ban hành các văn bản quy định rõ về điều kiện được làm việc ở nước ngoài, Nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn toàn cảnh thị trường lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và hạn chế các trường hợp như đi nước ngoài bằng hình thức như du lịch trá hình để ở lại làm việc bất hợp pháp.
12- Về công tác xử lý vi phạm hành chính:
- Kiến nghị Quốc hội sớm xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính và các luật khác có liên quan để khắc phục những hạn chế, bất cập như nêu ở phần trên nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tăng cường công tác quản lý nhà nước, góp phần đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật, tạo môi trường kinh tế, xã hội ổn định.
- Kiến nghị Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan cần chủ động nghiên cứu ban hành kịp thời các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính, đảm bảo thống nhất chung và hiệu lực thi hành ngay khi Luật được sửa đổi, bổ sung.
- Kiến nghị ban hành Quy chế liên ngành giữa các cơ quan hành chính nhà nước thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan liên quan (như Công an, Toà án, Viện kiểm sát, Mặt trận Tổ quốc…) trong đó cần làm rõ một số nội dung về phối hợp, cung cấp thông tin, trao đổi văn bản, tài liệu, báo cáo, số liệu thống kê; phối hợp kiểm tra; xây dựng văn bản có liên quan…
- Kiến nghị cần mở rộng và tăng cường phân cấp cho chính quyền địa phương trong việc quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả,…nhằm đảm bảo tính kịp thời, hiệu quả trong công tác xử phạt vi phạm hành chính; nghiên cứu tăng mức tiền phạt tối đa trong các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn giao thông đường bộ, hôn nhân gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình như nêu trên, đồng thời bỏ việc quy định thẩm quyền xử phạt xác định theo mức trần cố định số tiền phạt cụ thể như hiện hành.
- Kiến nghị bổ sung quy định hướng dẫn trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với người nước ngoài.
- Kiến nghị bổ sung trường hợp tổ chức được hoãn, giảm, miễn tiền phạt vi phạm hành chính; bổ sung quy định cụ thể cách giải quyết đối với số tiền khắc phục hậu quả, số tiền thu lợi bất hợp pháp khi đối tượng bị xử phạt xin giảm, miễn tiền phạt; xem xét bổ sung những trường hợp được xem là khó khăn về kinh tế để bảo đảm tính khả thi. Ví dụ, cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, thất nghiệp, không có thu nhập ổn định; tổ chức bị phá sản,…
- Kiến nghị cần quy định các biện pháp chế tài cứng rắn để áp dụng đối với trường hợp người bị xử phạt không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt hành chính; bổ sung các biện pháp cưỡng chế để cưỡng chế thi hành các hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả,… để bảo đảm tính khả thi, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
- Kiến nghị cần luật hóa hình thức phạt nguội trong lĩnh vực giao thông đường bộ nhằm đảm bảo tính pháp lý, tạo sự đồng bộ trong công tác phối hợp giữa các ngành và nâng cao tính tự giác chấp hành pháp luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông; bổ sung quy định về trách nhiệm của chủ phương tiện giao thông theo hướng bắt buộc chủ phương tiện phải nộp phạt thay cho người vi phạm trong trường hợp chủ phương tiện không xác định được người vi phạm. Đồng thời, kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Cục Đăng kiểm từ chối đăng kiểm cho phương tiện vi phạm sau khi nhận được thông báo đề nghị của cơ quan chức năng mà không cần chờ quyết định xử phạt vi phạm hành chính; kiến nghị Bộ Công an ban hành quy định về việc không giải quyết thủ tục sang tên đối với trường hợp phương tiện vi phạm bị phát hiện qua hình ảnh mà chưa chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
- Kiến nghị bổ sung hướng dẫn đối với đối tượng trốn thi hành, chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian dài và khi tìm thấy họ đã tiến bộ, có công ăn việc làm, gia đình ổn định, không còn nghiện nữa thì xem xét cho miễn thi hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Kiến nghị Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường tham mưu Thủ tướng Chính phủ quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, bổ sung hình thức cấm xuất cảnh đối với những trường hợp chưa đóng phạt đầy đủ theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính; có hướng dẫn cụ thể trong việc xác định và đo nguồn phát tiếng ồn để thuận tiện trong việc xử lý ô nhiễm tiếng ồn.
- Kiến nghị cần có những hướng dẫn cụ thể hoặc hủy bỏ các hình thức xử phạt bổ sung như: tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận hạng sao và tước quyền sử dụng Giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi vi phạm có liên quan.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế để giải quyết những bất cập hiện nay khi áp dụng:
+ Các cơ sở chưa được cấp Giấy phép hoạt động khám bệnh, chữa bệnh nhưng lại áp dụng hình thức phạt bổ sung “Đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 6 đến 12 tháng” là chưa phù hợp.
+ Hành vi “Không lập hoặc lập hồ sơ, bệnh án nhưng không ghi chép đầy đủ theo quy định của pháp luật” có mức phạt tiền thấp (khung phạt từ 200.000đ-500.000đ) chưa đủ sức răn đe cơ sở (Hồ sơ bệnh án là chứng cứ quan trọng trong quá trình giải quyết khiếu nại, phản ánh và tranh chấp trong khám, chữa bệnh của người bệnh, tuy nhiên các cơ sở có hành vi đối phó, cố tình không cung cấp hồ sơ, bệnh án tại cơ sở tại thời điểm kiểm tra).
+ Chưa có quy định về xử phạt đối với các hành vi: Cơ sở được cấp giấy phép hoạt động khám bệnh, chữa bệnh ngoài giờ hành chính nhưng trên thực tế lại mở cửa hoạt động trong giờ hành chính; Bác sỹ phụ trách chuyên môn vắng mặt tại phòng khám; Niêm yết giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh chưa đầy đủ theo Danh mục kỹ thuật đã được phê duyệt; Kê đơn thuốc ngoại trú; Thay đổi nhân sự tham gia khám, chữa bệnh là Trưởng khoa tại Phòng khám đa khoa, bệnh viện nhưng không báo cáo và thực hiện bổ sung nhân sự thay thế; Cần có quy định về mức giá trần đối với các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh để hạn chế việc thu giá dịch vụ quá cao tại các cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân; Đăng ký danh sách nhân sự tại cơ sở khám chữa bệnh cho cơ quan có thẩm quyền; Quảng cáo hoạt động tư vấn, khám bệnh, chữa bệnh trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội (Facebook, Zalo, Viber…) mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận nội dung trước khi thực hiện quảng cáo theo quy định; Bằng cấp, chứng chỉ hành nghề của tư vấn viên online, nhân viên tư vấn tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Hoạt động tư vấn online trên các trang mạng xã hội của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Hành vi chẩn đoán bệnh nhiều lần (có dấu hiệu “vẽ bệnh”) trong quá trình khám và điều trị tại các phòng khám đa khoa; Sử dụng dung môi, hóa chất đã hết hạn sử dụng, không rõ nguồn gốc tại các phòng xét nghiệm; Các hành vi vi phạm đối với các cơ sở hoạt động kinh doanh kính thuốc, các cơ sở chăm sóc da, dịch vụ thẩm mỹ…; Các quy định về điều kiện, nhân sự đối với việc sử dụng xe cấp cứu tại các phòng khám tư nhân.
- Các hành vi vi phạm về sản suất, kinh doanh hàng cấm tại Nghị định 185/2013/NĐ-CP trùng lắp với các hành vi quy định về xử phạt vi phạm về sản xuất thuộc không có số đăng ký; kinh doanh, nhập khẩu thuốc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam tại Nghị định số 176/2013/NĐ-CP (điểm a, khoản 5 Điều 39; điểm b, khoản 6 Điều 40, điểm a, khoản 1 Điều 41); Nghị định số 119/2013/NĐ-CP (Điều 16; khoản 6, Điều 17).
- Kiến nghị sửa đổi các điều khoản có liên quan của Nghị định số 119/2017/NĐ-CP và Nghị định số 74/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất trong công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vục tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Kiến nghị đối với các nội dung quản lý nhà nước công tác thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính: bám sát mục đích, yêu cầu của công tác quản lý nhà nước công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã được nêu trong Luật Xử lý vi phạm hành chính để hướng dẫn cụ thể cách thức thực hiện, những nội dung phải thực hiện, không đặt thêm những hoạt động, yêu cầu không thực sự cần thiết, không khả thi, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi Đảng và Nhà nước đẩy mạnh việc tinh giản bộ máy, biên chế. Trong công tác thống kê, báo cáo, đề nghị rút gọn, đơn giản hóa nội dung báo cáo, quy định thời gian phù hợp cho địa phương để thực hiện báo cáo. Có chế độ, chính sách hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện công tác xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời, khẩn trương xây dựng và đưa vào hoạt động phần mềm dùng chung trong cả nước về xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính.
- Kiến nghị tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ bằng nhiều hình thức khác nhau; nội dung tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cần bám sát thực tiễn để hướng dẫn, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của địa phương trong quá trình áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, đặc biệt đối với những tình huống phát sinh mà pháp luật chưa quy định hoặc còn có nhiều cách hiểu khác nhau, bảo đảm tính thống nhất trong áp dụng pháp luật, tránh tình trạng cùng một quy định nhưng mỗi nơi hiểu và áp dụng khác nhau.
- Kiến nghị cần giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt phương án xử lý tài sản đối với tài sản tịch thu do Ủy ban nhân dân Thành phố, Ủy ban nhân dân quận, Công an quận ra quyết định tịch thu để đảm bảo thời gian và tiến độ xử lý tài sản theo Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Kiến nghị cấp có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể hình thức xử lý tài sản tịch thu là thuốc lá điếu, cụ thể: Cơ quan đủ điều kiện, năng lực giám định xác định thuốc lá còn chất lượng hoặc không còn chất lượng; cơ quan có chức năng tái xuất thuốc lá (đối với thuốc lá còn chất lượng); cơ quan có chức năng tiêu hủy (đối với thuốc lá không còn chất lượng) và quy trình xử lý đối với từng loại tài sản trên.
- Kiến nghị bổ sung quy định về việc trích lại kinh phí xử phạt vi phạm hành chính phục vụ công tác xử lý vi phạm hành chính, đặc biệt là đầu tư hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ công tác xử lý vi phạm hành chính.
- Kiến nghị cần có quy định hướng dẫn cụ thể hơn về trình tự, thủ tục xử lý, tiêu huỷ tang vật; việc cấp kinh phí và sử dụng kinh phí phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính trên các lĩnh vực để áp dụng kịp thời nhằm phục vụ tốt công tác xử lý vi phạm hành chính, đặc biệt là kinh phí trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính như tịch thu, tiêu huỷ hàng hoá.
- Hiện nay, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa có hướng dẫn cụ thể về cụm từ “làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định” trong các trường hợp sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ quyết định xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Mục 8, 9 Nghị định 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 bổ sung Điều 6a, 6b vào Điều 6 Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Đề nghị cần có văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể đối với trường hợp trên.
- Quy định tại khoản 3, Điều 4 Nghị định 112/2013/NĐ-CP quy định: “Các khoản chi cho ăn, ở, khám, chữa bệnh tại cơ sở lưu trú quy định tại khoản 3 Điều 30 Nghị định này và phương tiện xuất cảnh do người bị trục xuất chi trả” khó thực hiện, đặc biệt là đối với các đối tượng người nước ngoài vừa chấp hành xong án phạt tù, không có kinh phí mua vé máy bay, vé tàu… để rời khỏi Việt Nam. Bên cạnh đó, kinh phí buộc xuất cảnh đối với các đối tượng bị áp dụng biện pháp trục xuất rất lớn và hiện chưa có quy định cụ thể về kinh phí để thực hiện việc buộc xuất cảnh đối với các trường hợp nêu trên. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định 112/2013/NĐ-CP để quy định hướng dẫn thi hành đối với trường hợp trên.
- Kiến nghị Bộ Tư pháp phối hợp Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan quy định cụ thể, thống nhất về cán bộ làm công tác xử lý vi phạm hành chính trong cả nước; quy định thống nhất về kinh phí thực hiện công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Đồng thời, sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP của Chính phủ, theo đó quy định thành lập Phòng Pháp chế tại các sở, ban, ngành tỉnh.
- Kiến nghị các Bộ, ngành có liên quan có văn bản hướng dẫn trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hết thời hạn bị tạm giữ theo quy định tại Điều 17 Nghị định 115/2013/NĐ-CP ngày 03/10/2013.
- Kiến nghị Bộ Công an có cơ chế cho phép Công an Thành phố bố trí nơi lưu giữ riêng đối với người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong thời gian chờ xác minh nhân thân, chờ trục xuất.